Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Tóm lược về Môn

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 16616)
4. Tóm lược về Môn

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

Chương III

PAKI.N.NAKA-SAṄGAHA-VIBHĀGO
PHẦN LINH TINH

IV. Dvāra-Saṅgaho
Tóm lược về Môn

8.

Dvārasaṅgahe dvārāni nāma cakkhudvāraṁ sotadvāraṁ ghāṇadvāraṁjivhādvāraṁ kāyadvāraṁ manodvārañ c'āti chabbidhāni bhavanti.

Tattha cakkhum'eva cakkhudvāraṁ, tathā sotādayo sotadvārādīni. Manodvāraṁ pana bhavaṅgaṁ pavuccati.

Tattha pañcadvārāvajjana-cakkhuviññāṇa-sampaṭicchana-santīraṇa-votthapana kamāvacara- javana-tadālambanavasena cha cattāḷīsa cittāni cakkhudvāre yathārahaṁ uppajjanti. Tathā pañcad- vārāvajjana-sotaviññāṇādivasena sotadvārādīsu' pi chacattāḷīs'eva bhavanti. Sabbathā' pi pañcadvāre catupaññāsacittāni kāmāvacarañ' evā'ti veditabbāni.

Manodvāre pana manodvārāvajjana-pañcapaññāsa- javana-tadālambanavasena sattasaṭṭhicittāni bhavanti.

Ekūnavīsati paṭisandhi-bhavaṅga-cuti-vasena dvāra- vimuttāni.

Tesu pana dvipañcaviññāṇāni c'eva mahaggata-lokuttarajavanāni c'āti chattiṁsa yathāraham' eka- dvārikacittāni nāma.

Manodhātuttikaṁ pana pañcadvārikaṁ

Sukhasantīraṇa-votthapana-kāmāvacarajavanāni chadvārikacittāni.

Upekkhāsahagata santīraṇa-mahāvipākāni cha- dvārikāni c'eva dvāravimuttāni ca.

Mahaggatavipākāni dvāravimuttān' evā'ti.

9.

Ekadvārikacittāni pañcadvārikāni ca
Chadvārika vimuttāni vimuttāni ca sabbathā.
Chattiṁsati tathā tīṇi ekatiṁsa yathākkamaṁ
Dasadhā navadhā c'āti pañcadhā paridīpaye.

§8

Trong tóm lược về môn (43) có sáu loại là: nhãn môn (44), nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn, thân môn, và ý môn (45).

Nơi đây, chính con mắt là nhãn môn, tai là nhĩ môn v.v... Nhưng bhavaṅga được gọi là ý môn.

Trong các loại tâm, bốn mươi sáu (46) loại phát sanh, tùy trường hợp (47), trong nhãn môn.

a. Ngũ môn hướng tâm,
b. nhãn thức,
c. tiếp thọ,
d. suy đạc,
e. xác định,
f. javana thuộc Dục Giới,
g. đăng ký.

Cùng thế ấy, do nhĩ môn và các môn khác, bốn mươi sáu loại tâm phát sanh như ngũ môn hướng tâm, nhĩ thức v.v...

Nên hiểu biết rằng trong mỗi lối vào, ở năm cửa có năm mươi bốn loại tâm thuộc Dục Giới (48).

Trong ý môn có sáu mươi bảy loại tâm phát sanh như ý môn hướng tâm, năm mươi lăm javana (49) và đăng ký (50).

Mười chín loại tâm như nối liền (paṭisandhi), hộ kiếp (bhavaṅga), và tâm chết (cuti) không có môn (51).

Trong những loại (phát sanh xuyên qua các môn), ba mươi sáu (52) loại tâm như ngũ song thức, những loại javana Cao Thượng (Ðại Hành) và Siêu Thế (53), có một môn, tùy trường hợp.

Ba. thành phần tâm (54) phát sanh do năm môn.

Tâm suy đạc liên hợp với thọ hỷ (55), tâm xác định (56), và những javanas thuộc Dục Giới phát sanh qua sáu môn.

Suy đạc liên hợp với thọ xả và những tâm Ðại Quả phát sanh, hoặc qua sáu môn, hoặc không qua môn nào (57).

Những tâm quả Cao Thượng (Ðại Hành) phát sanh không do môn nào.

§9

Ba mươi sáu loại tâm (59) phát sanh qua một môn, ba qua năm môn, ba mươi mốt qua sáu môn, mười qua sáu hoặc không qua môn nào, chín hoàn toàn không qua môn nào. Tất cả có năm đường lối được trình bày.

Chú Giải

43. Dvārā, Môn.

Xuất nguyên từ "du", hai, và căn "ar" đi, vào.

Dvārā là cái gì có tác dụng như một lối vào và một lối ra. Mắt, tai, mũi và các giác quan khác tác động như những lối ra vào, hay cửa, môn, để đối tượng nhập vào.

Năm giác quan và tâm được xem là sáu cửa xuyên qua đó đối tượng có thể vào.

Xem Compendium of Philosophy, trang 85, số 4.

44. Cakkhudvārā, Nhãn Môn.

Là mặt nhạy của mắt. Các môn khác cũng phải được hiểu cùng một thế ấy.

45. Manodvārā, Ý Môn

Trong phần trên có giải thích rằng khi một đối tượng nhập vào tâm, trước tiên bhavaṅga giao động trong một sát- na, và kế đó dừng lại. Tiếp theo, chặp ngũ môn hướng tâm phát sanh. Trong trường hợp đối tượng thuộc về vật chất, đây là một trong ngũ quan thức như nhãn thức, nhĩ thức v.v...

Trong trường hợp đối tượng thuộc về tinh thần, thì đây là ý môn hướng tâm (manodvārāvajjana). Chặp tư tưởng bhavaṅgupaccheda (bhavaṅga dứt dòng) tức khắc đến trước ngũ môn hướng tâm được biết là ý môn (manodvārā). Abhidhammāvatāra ghi nhận:

"S'āvajjanaṁ bhavaṅgantu manodvāranti vuccati." Chặp bhavaṅga với āvajjana (hướng tâm) được gọi là ý môn (manodvāra).

46.

Bản chú giải tóm lược 46 như sau:

a/- 1;
b/- 2 (akusala và kusala vipāka cakkhu viññāṇa);
c/- 2 (akusala và kusala vipāka sampaṭicchana);
d/- 3 (akusala vipāka = 1, kusala vipāka santīraṇa = 2);
e/- 1;
f/- 29 (akusala = 12 + kusala = 8 + ahetuka kriyā hasituppāda = 1 + sobhana kriyā = 8);
g/- 8 (sobhana vipāka -- còn lại ba loại kia đã được bao gồm trong santīraṇa.)
----------------------------------------------------------------------------------------
1 + 2 + 2 + 3 + 1 + 29 + 8 = 46

Bốn mươi sáu loại tâm phát sanh do nhãn môn, lấy hình sắc làm đối tượng (rūpālambana) . Một số tâm tương đương phát sanh do mỗi cửa trong bốn môn còn lại, với đối tượng tương ứng.

47. Yathārahaṁ, Tùy Theo.

Nghĩa là, "tùy theo đối tượng đáng được ưa thích hay không, sự chú ý có chân chánh hay sai lạc, cá nhân có khát vọng hay không" (Vibhāvini Tīkā). Ông Aung nói, " Ngài Ledi Sayadaw cũng giải thích như vậy "tùy theo đối tượng, cảnh giới sinh sống, chủ thể, sự chú ý v.v..."

48.

Tất cả những loại tâm thuộc Dục Giới đều phát sanh do năm cửa ấy.

49.

Ðó là: 12 akusalas (bất thiện) + 1 ahetuka kriyā (vô nhân hành) + 16 sobhana kusala và kriyā (đẹp thiện và hành) + 10 Rūpāvacara kusala và kriyā (thiện và hành thuộc Sắc Giới) + 8 Arūpāvacara kusala và kriyā (thiện và hành thuộc Vô Sắc Giới) + 8 Lokuttara Magga và Phala (Ðạo và Quả Siêu Thế).
(12 + 1 + 16 + 10 + 8 + 8 = 55).

50.

Là 3 santīraṇa (suy đạc) và 8 sobhana vipāka (quả đẹp)

51. Dvārā-vimutta, Không Tùy Thuộc Môn Nào

Sách Vibhāvini Tīkā giải thích rằng các loại tâm nầy được gọi như vậy là vì:

1. không phát sanh qua một cửa giác quan nào như nhãn môn v.v...

2. Bhavaṅga tự nó là ý môn, và

3. hiện hữu tự chính nó, không cần phải duyên theo một đối tượng nào từ bên ngoài (trong kiếp sống hiện tại). Lý do đầu tiên áp dụng cho cuti (chặp tử tâm) và paṭisandhi (nối liền). Lý do thứ nhì áp dụng cho bhavaṅgupaccheda (bhavaṅga dứt dòng), và lý do thứ ba cho tất cả bhavaṅga và cuti.

Trước kia đã có ghi nhận rằng những chặp paṭisandhi, bhavaṅga và cuti của một kiếp sống giống hệt nhau, bởi vì các đối tượng và các tâm sở đồng phát sanh giống hệt nhau, mặc dầu nhiệm vụ có khác.

Vào lúc lâm chung, một tiến trình tâm phát sanh có khả năng tạo điều kiện cho kiếp sống tới. Ðối tượng của tiến trình tâm nầy có thể là:

1. một nghiệp (kamma), hay hành động, mà ta đã làm trong đời sống, và khi sắp chết nhớ lại hành động ấy một cách rõ ràng như đang xảy ra. Nói một cách chính xác, đó là sự lặp lại của loại tâm mà ta đã có ngay lúc thực hiện hành động. Hoặc có thể là

2. một biểu hiệu của nghiệp (kamma nimitta) đã gieo ấn tượng mạnh mẽ và rành mạch đến ta, trong khi ta thực hiện hành động. Hoặc cũng có thể là

3. biểu hiệu lâm chung, tượng trưng cho một vài đặc điểm của cảnh giới mà ta sẽ tái sanh vào (gati-nimitta) [1]. Tâm tái sanh (paṭisandhi) duyên theo một trong ba đối tượng ấy để phát sanh trong kiếp sống tới kế đó. Ðối tượng của những chặp bhavaṅga và cuti của kiếp sống nầy sẽ giống hệt như đối tượng của paṭisandhi trên. Do đó, phần trên có ghi rằng ba chặp tâm nầy sẽ không duyên theo một đối tượng nào từ bên ngoài.

52.

Chúng nó phát sanh trong những môn tương ứng, như nhãn môn, nhĩ môn v.v...

53.

Tất cả 26 loại javana Cao Thượng (Ðại Hành ) và Siêu Thế phát sanh do ý môn.

54.

Hai loại sampaṭicchana (tiếp thọ) và pañcadvārā- vajjana (ngũ môn hướng tâm) chỉ phát sanh qua năm căn môn vật chất (ngũ quan). Người đọc nên ghi nhận rằng đôi khi tất cả loại tâm nầy được gọi chung là manodhātuttika (ba thành phần tâm, hay ba ý giới).

55.

Tâm suy đạc phát sanh qua ngũ quan, liên hợp với thọ hỷ khi đối tượng phát hiện là đáng được ưa thích. Nó phát sanh do ý môn như một chặp đăng ký (tadālambana).

56.

Ðó là manodvārāvajjavana tác hành những nhiệm vụ thuần túy như ý môn hướng tâm và như xác định tâm trong một tiến trình tâm phát sanh qua bất luận một trong năm môn vật lý nào.

57.

Khi làm nhiệm vụ paṭisandhi, bhavaṅga và cuti các loại tâm nầy không tùy thuộc nơi môn nào.

58.

Chín loại tâm quả thuộc Sắc GiớiVô Sắc Giới phát sanh dưới hình thức paṭisandhi, bhavaṅga và cuti trong cảnh giới tương ứng. Do đó, các loại tâm nầy không tùy thuộc nơi môn nào.

59. Ðó là:

Dvipañca viññāṇa (ngũ song thức): 10
Rūpāvacara kusala và kriyā (thiện và hành Sắc Giới): 10
Arūpāvacara kusala và kriyā (thiện và hành Vô Sắc Giới): 8
Lokuttara Magga và Phala (Ðạo và Quả Siêu Thế): 8
------------------------------------------------
Tổng cộng: 36 (10 + 10 + 8 + 8)

Ghi chú:

[1] Ðề cập đến đối tượng của chặp paṭisandhi citta (tâm nối liền), Ông Aung ghi trong quyển Compendium : Ṅhững loại tâm nầy duyên theo đối tượng, hoặc trong chính hành động tạo nghiệp, hoặc một tượng trưng của hành động quá khứ ấy (kamma nimitta), hoặc một dấu hiệu của những khuynh hướng (gati-nimitta) mà năng lực của hành động quá khứ ấy xác định." Trang 26.

Nơi đây gati nimitta có nghĩa là một dấu hiệu, hay biểu tượng, của nơi chốn mà người lâm chung sẽ tái sanh vào, như lửa, thịt, cung điện trên cảnh trời v.v...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11660)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11981)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11132)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11378)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12087)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12584)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10789)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18022)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11751)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9970)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10207)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12375)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15382)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11269)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14352)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12128)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15398)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12032)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12434)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11215)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12114)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10644)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12575)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13195)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14865)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12724)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16604)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19694)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13133)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12685)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12286)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11878)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10917)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13559)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11975)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11864)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11658)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12785)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14551)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12652)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15693)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13648)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12927)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9907)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18037)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11197)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9108)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12211)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13083)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10334)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12228)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15340)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16631)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12245)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11507)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14292)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19727)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14180)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24639)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10717)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant