Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Những Tiến Trình Tâm

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 16701)
2. Những Tiến Trình Tâm

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

CHƯƠNG IV

VĪTHI-SAṄGAHA VIBHĀGO
Phân tách Tiến trình tâm

-ooOoo-

Những Tiến Trình Tâm

2.

Cha vatthūni, cha dvārāni, cha ālambanāni, cha viññāṇāni, cha vīthiyo, chadhā visayappavatti c'āti vīthisaṅgahe chachakkāni veditabbāni.

Vīthimuttānaṁ pana kamma-kammanimitta- gatinimitta-vasena tividhā hoti visayappavatti.

Tattha vatthudvārālambanāni pubbe vuttanayen' eva.

Cakkhuviññāṇaṁ, sotaviññāṇam, ghāṇaviññāṇaṁ, jivhāviññāṇaṁ, kāyaviññāṇaṁ, manoviññāṇaṁ c'āti cha viññāṇāni.

Vīthiyo pana cakkhudvāravīthi, sotadvāravīthi, ghāṇadvāravīthi, jivhādvāravīthi, kāyadvāravīthi, manodvāravīthi c'āti dvāravasena vā cakkhu- viññāṇavīthi, sotaviññāṇavīthi, ghāṇaviññāṇavīthi, jivhāviññāṇavīthi, kāyaviññāṇavīthi, mano-viññāṇavīthi c'āti viññāṇavasena vā dvārappavattā cittappavattiyo yojetabbā.

3.

Atimahantaṁ, mahantaṁ, parittaṁ atiparittaṁ c'āti pañcadvāre, manodvāre, vibhūtamavibhūtaṁ c'āti chadhā visayappavatti veditabbā

Katham? Uppādaṭṭhitibhavaṅgavasena khaṇatta- yaṁ ekacittakkhaṇaṁ nāma. Tāni pana sattarasa- cittakkhaṇāni rūpadhammānamāyu. Ekacittakkha- ṇātītāni vā, bahucittakkhaṇātītāni vā ṭhitippattān' eva pañcālambanāni pañcadvāre āpātham āgacchanti. Tasmā yadi ekacittakkhaṇātitakaṁ rūpārammaṇaṁ cakkhussa āpātham āgacchati. Tato dvikkhattuṁ bhavaṅge calite bhavaṅgasotaṁ vocchinditvā tam'eva rūpārammaṇaṁ āvajjentaṁ pañcadvārāvajjanacittaṁ uppajjitvā nirujjhati. Tato tass' ānantaraṁ tam'eva rūpaṁ passantaṁ cakkhuviññāṇaṁ, sampaṭicchantaṁ sampaṭicchana cittaṁ, santīrayamānaṁ santīraṇacittaṁ, vavatthapentaṁ votthapanacittaṁ c'āti yathāk- kamaṁ uppajjitvā nirujjhanti. Tato paraṁ ek'ūnatiṁsakāmāvacarajavanesu yaṁ kiñci laddhapaccayaṁ yebhuyyena sattakkhattuṁ javati. Javanānubandhāni ca dve tadārammaṇapākāni yathārahaṁ pavattanti. Tato paraṁ bhavaṅgapāto.

Ettāvatā cuddasacittuppādā dve bhavaṅgacalanāni pubbevātītakamekacittakkhaṇanti katvā sattarasa cittakkhaṇāni paripūrenti. Tato paraṁ nirujjhati. Ālambanam'etaṁ atimahantaṁ nāma gocaraṁ.

Yāva tadālamban' uppādā pana appahontātītakam- āpāthaṁ āgataṁ ālambanaṁ mahantaṁ nāma. Tattha javanāvasāne bhavaṅgapāto' va hoti. Natthi tadālambanuppādo.

Yāva javanuppādā'pi appahontātītakamāpātham āgataṁ ālambanaṁ parittaṁ nāma.

Tattha javanaṁ pi anuppajjitvā dvattikkhattuṁ votthapanam' eva pavattati. Tato paraṁ bhavaṅgapāto'va hoti.

Yāva votthapanuppādā ca pana appahontātītakam āpātham āgataṁ nirodhāsannamālambanaṁ atiparittaṁ nāma. Tattha bhavaṅgacalanam' eva hoti. Natthi vīthicittuppādo.

Icc'evaṁ cakkhudvāre, tathā sotadvārādīsu c'āti sabbathā'pi pañcadvāre tadālambana-javana-votthapanamoghavāra-saṅkhātānaṁ catunnaṁ vārānaṁ yathākkamaṁ ālambaṇabhūtā visayappavatti catudhā veditabbā.

4.

Vīthicittāni satt' eva cittuppādā catuddasa
Catupañ
ñāsa vitthārā pañcadvāre yathārahaṁ.
Ayam' ettha pañ
cadvāre vītthicittappavattinayo.

§2.

Trong khái luận về những tiến trình tâm, sáu loại phân hạng phải được hiểu biết, đó là:

i. sáu căn,
ii. Sáu môn,
iii. đối tượng [1],
iv. Sáu loại tâm,
v. Sáu tiến trình (2), và
vi. Sáu lối phát hiện của đối tượng (3).

Sự phát hiện của đối tượng đến tâm không tiến trình [2] có ba loại là:

i. Nghiệp,
ii. Biểu tượng của Nghiệp và,
iii. Biểu tượng lâm chung.

Nơi đây, các căn, môn, và đối tượng đã có được mô tả trước.

Sáu loại tâm thứcnhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thứcý thức.

Tùy theo các môn, những tiến trình tâm là:

1. Tiến trình liên quan đến nhãn môn,
2. Tiến trình liên quan đến nhĩ môn,
3. Tiến trình liên quan đến tỷ môn,
4. Tiến trình liên quan đến thiệt môn,
5. Tiến trình liên quan đến thân môn, và
6. Tiến trình liên quan đến ý môn.

Hoặc, tùy theo loại thức, những tiến trình tâm là:

1. Tiến trình liên quan đến nhãn thức,
2. Tiến trình liên quan đến nhĩ thức,
3. Tiến trình liên quan đến tỷ thức,
4. Tiến trình liên quan đến thiệt thức,
5. Tiến trình liên quan đến thân thức, và
6. Tiến trình liên quan đến ý thức.

Phương thức diễn tiến của tâm liên quan đến các môn phải được phối hợp như thế ấy.

§3

Sáu lối phát hiện của đối tượng (4) phải được hiểu như sau:

a. Ở năm môn:

i. 'rất lớn',
ii. 'lớn',
iii. 'nhỏ',
iv. 'rất nhỏ'.

b. Ở ý môn:

v. 'sáng',
vi. 'tối'.

Mức độ của những đối tượng được xác định như thế nào?

Ba khoảnh khắc sanh, trụ, diệt hợp thành một chặp tư tưởng (sát-na). Thời gian tồn tại của vật chất bằng mười bảy chặp tư tưởng như vậy.

Năm đối tượng vật chất nhập vào (tâm) theo con đường của năm môn (cửa giác quan) lúc ở giai đoạn tịnh, khi một hay nhiều chặp tư tưởng vừa trôi qua.

Do đó tiến trình tâm (4) trôi chảy như sau:

Thí dụ như một đối tượng của nhãn quan vừa trôi qua một chặp (i), theo đường của mắt. Kế đó tâm bhavaṅga giao động trong một chặp rồi diệt (ii, iii) chấm dứt dòng bhavaṅga. Liền sau đó ngũ môn hướng tâm (iv) phát sanh và chấm dứt sự hay biết chính đối tượng của mắt đó.

Tiếp theo là những chặp tư tưởng sau đây tuần tự phát sanh và chấm dứt:

(v) nhãn thức, nhìn thấy hình dáng của đối tượng, (vi) (vii) tiếp thọ tâm, thâu nhận hình dáng ấy, (viii) (ix) suy đạc tâm, quan sát hình dáng ấy, (x) (xi) xác định tâm, xác định hình dáng ấy. (xii) Kế đó một trong 29 loại tâm thuộc Dục Giới, được tạo duyên như vậy, thường trôi qua trong bảy chặp (ix-xv).

Sau những chặp javana, hai chặp tâm đăng ký (xvi-xvii) tùy trường hợp phát sanh. Sau cùng đến giai đoạn chìm biến vào bhavaṅga.

Ðến đây mười bảy chặp tư tưởng đã hoàn tất là:

* mười bốn sự 'khởi sanh tư tưởng' (cittuppāda)
* hai giao động của bhavaṅga, và
* một chặp tư tưởng trôi vào bước sơ khởi.

Rồi đối tượng chấm dứt.

Một đối tượng như thế được gọi là 'rất lớn' [3].

Một đối tượng nhập vào theo đường lối các giác quan, trôi qua (vài chặp), và không tồn tại được cho đến khi chặp đăng ký phát sanh, được gọi là 'lớn'.

Một đối tượng nhập vào theo đường lối các giác quan, trôi qua (vài chặp), và không diễn tiến được đến những chặp javana, được gọi là 'nhẹ'.

Trong trường hợp nầy, chí đến các chặp javanas cũng không phát sanh, mà chỉ có tâm xác định tồn tại trong hai hoặc ba chặp, và kế đó chìm biến trong bhavaṅga.

Một đối tượng sắp chấm dứt nhập vào dòng tâm theo đường lối các giác quan, trôi qua vài chặp, và không tồn tại được đến khi chặp tâm xác định khởi sanh, được xem là 'rất nhẹ'.

Trong trường hợp nầy chỉ có sự giao động của chặp bhavaṅga mà không có tiến trình.

nhãn môn như thế nào, ở các cửa giác quan kia như nhĩ môn v.v... cũng dường thế ấy.

Trong tất cả năm môn, đối tượng phát hiện theo bốn đường lối phải được hiểu biết theo thứ tự như sau:

1. diễn tiến (chấm dứt ở) đăng ký.
2. diễn tiến (chấm dứt ở) javana.
3. diễn tiến (chấm dứt ở) xác định, và
4. diễn tiến không đáng kể.

§4

Có bảy [4] phương cách và mười bốn loại tâm khác nhau trong tiến trình tâm. Tính với đầy đủ chi tiết, có 54 [5] tùy trường hợp, trong năm môn.

Ðây là phương thức diễn tiến của tiến trình tâm phát sanh xuyên qua năm môn.

Ghi chú:

[1] Ba loại đầu tiên đã được thảo luận trong một chương trước. Nơi đây chỉ lặp lại để cho đủ sáu căn.

[2] Ðó là paṭisandhi, bhavaṅga, và cuti.

[3] Xem các đồ biểu về Tiến trình Tâm ở cuối chương.

[4] Ðó là: 1. Āvajjana, 2. Pañcaviññāṇa, 3. Sampaṭicchana, 4. Santīraṇa, 5. Votthapana, 6. Javana (7 chặp) và 7. Tadālambana. Bảy chặp nầy trở thành 14, nếu tính riêng 7 chặp javana, và 2 chặp tadālambana.

[5] 54 bao gồm tất cả những loại tâm thuộc Dục Giới phát sanh xuyên qua năm môn.

Chú Giải

2. Vīthi, Lộ Trình

Xuất nguyên từ "vi" + căn "i", đi. Danh từ nầy có nghĩa là một lối đi, một con đường nhưng ở đây được dùng theo nghĩa một diễn tiến, một tiến trình (paramparā). Một tiến trình tâm bao gồm nhiều chặp tư tưởng (sát-na tâm), và một chặp tư tưởng không bao giờ được gọi là citta-vīthi.

3. Visayappavatti

Các bản chú giải định nghĩa danh từ nầy là "sự biểu hiện của đối tượng trước các môn", hay là sự "khởi sanh của tâm do lối biểu hiện của một đối tượng như vậy". (visayānaṁ dvāresu, visayesu ca cittānaṁ pavatti).

Hiển nhiêntác giả chọn lối giải thích trước.

4. Tiến Trình Tâm

Theo Abhidhamma (Vi Diệu Pháp), trong trạng thái bình thường không có khoảnh khắc nào mà chúng ta không có một loại tâm riêng biệt duyên theo một đối tượng -- vật chất hay tinh thần. Thời hạn một tâm như vậy được gọi là chặp tư tưởng, hay sát-na tâm. Khả năng hiểu biết của con người khó mà nhận định được sự nhanh chóng của những chặp tư tưởng liên tục nối tiếp nhau như vậy. Kinh sách ghi nhận rằng trong khoảng thời gian ngắn ngủi của một cái nhoáng trên trời hay trong một chớp mắt, hàng tỷ chặp tư tưởng có thể khởi sanh và hoại diệt.

Mỗi chặp tư tưởng bao gồm ba thì, gọi là tiểu sát-na (khaṇa) [1]. Ðó là uppāda (khởi sanh, hay điểm xuất phát), ṭhiti (trụ, tịnh, hay phát triển) và bhaṅga (diệt, chấm dứt, hay tan rã).

Sanh, lão, và tử tương đương với ba thì ấy. Khoảng cách giữa sanh và tử được xem là hoại.

Tức khắc liền sau giai đoạn diệt của chặp tư tưởng, giai đoạn khởi của chặp tư tưởng kế đó được tạo điều kiện để phát sanh nối tiếp theo. Như vậy, mỗi đơn vị tâm hoại diệt tạo điều kiện cho một đơn vị khác khởi phát và cùng lúc, chuyển tất cả năng lực cho đơn vị kế nối ấy. Do đó, có sự trôi chảy liên tục của tâm như một dòng suối mà không có gián đoạn.

Khi một đối tượng vật chất phát hiện đến tâm xuyên qua một trong năm cửa giác quan (môn) là có một tiến trình tâm bao gồm một loạt những chặp tư tưởng riêng biệt, chặp nầy dẫn đến chặp khác, theo một trật tự đều đặn. Trật tự ấy được gọi là citta-niyāma (trật tự tâm linh). Thế thường, để có sự tri giác trọn vẹn về một đối tượng vật chất phát hiện xuyên qua một trong năm môn cần phải có đủ 17 sát-na. Như vậy thời gian tồn tại của vật chấtthời gian của 17 chặp tư tưởng. Qua thời hạn ấy, một đơn vị căn bản của vật chất hoại diệt và tạo điều kiện cho một đơn vị khác khởi sanh. Ðối với đơn vị vật chất mới nầy, sát-na đầu tiên được xem là giai đoạn sanh (uppāda), sát na cuối cùng là diệt (bhaṅga), và khoảng 15 sát-na còn lại là giai đoạn hoại, hay phát triển (ṭhiti hoặc jarā).

Thông thường, khi một đối tượng nhập vào dòng tâm xuyên qua bất luận môn nào, một chặp bhavaṅga trôi qua, được gọi là atīta bhavaṅga, bhavaṅga vừa qua, hay bhavaṅga quá khứ.

Kế đó một tiến trình tâm tương ứng trôi chảy không gián đoạn luôn 16 chặp tư tưởng. Trong trường hợp như vậy, đối tượng phát hiện được gọi là "rất lớn".

Nếu tiến trình chấm dứt sau dòng javana mà không tạo điều kiện cho hai chặp tâm đăng ký (tadālambana) phát sanh -- và như vậy chỉ hoàn tất 14 chặp -- đối tượng của tiến trình nầy được gọi là "lớn".

Ðôi khi tiến trình chấm dứt sau chặp tâm xác định (votthapana) mà không tạo điều kiện cho luồng javana khởi phát, và như vậy chỉ hoàn tất 7 chặp tư tưởng. Trong trường hợp nầy đối tượng của tiến trình được gọi là "nhẹ", hay "nhỏ".

Cũng có khi đối tượng nhập vào dòng tâm và chỉ làm giao động chặp bhavaṅga mà thôi. Như vậy, đối tượng được gọi là "rất nhẹ", hay "rất nhỏ".

Khi cái gọi là đối tượng "rất lớn" hay "lớn", được tri giác xuyên qua năm môn, và sau đó ý môn cảm nhận, hoặc khi một tiến trình tư tưởng khởi phát xuyên qua ý môn và diễn tiến kéo dài đến tâm đăng ký, một đối tượng như thế được gọi là "sáng".

Khi một tiến trình tâm phát sanh xuyên qua ý môn chấm dứt ở giai đoạn javana, đối tượng được gọi là "tối".

Thí dụ như người kia nhìn lên mặt trăng sáng tỏ trong một đêm quang đãng, trời không mây. Người ấy cũng thoáng thấy những vì sao lóng lánh xung quanh mặt trăng. Tuy chăm chú nhìn mặt trăng, nhưng người ấy không thể tránh được sự việc thấy những ngôi sao xung quanh. Mặt trăng được xem là đối tượng lớn, và những ngôi sao là những đối tượng phụ thuộc, nhỏ. Một cách chính xác không phải người kia tri giác trăng và sao cùng một lúc, vì mỗi chặp tư tưởng chỉ duyên theo một đối tượng mà thôi. Như vậy, mặt trăng và các vì sao được tri giác trong những khoảnh khắc riêng biệt khác nhau. Theo Abhidhamma (Vi Diệu Pháp), nói rằng người kia tri giác mặt trăng bằng tâm, hay thức, và tri giác các ngôi sao bằng tiềm thức là không đúng.

Ghi chú:

[1] Ba giai đoạn nầy tương ứng với quan điểm của Ấn Ðộ Giáo về Brahma (Tạo Hóa), Vishnu (Người Bảo Tồn) và Siva (Người Tiêu Diệt).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19862)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28975)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19446)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30504)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36431)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33235)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35572)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20991)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21926)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25263)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25800)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31268)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18566)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25146)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23776)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28945)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20869)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31446)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25552)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29725)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22528)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23288)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25753)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23726)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40616)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22454)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22101)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23515)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24317)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41111)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18997)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20493)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27730)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38129)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34080)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36790)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24005)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29199)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60166)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27623)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68751)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24539)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24504)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22720)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26374)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26551)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20825)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20067)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27556)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46443)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53587)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25583)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29272)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant