Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Tiến trình tâm Appanā

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 15950)
4. Tiến trình tâm Appanā

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

CHƯƠNG IV

VĪTHI-SAṄGAHA VIBHĀGO
Phân tách Tiến trình tâm

-ooOoo-

Appanā-vīthicittappavattinayo
Tiến trình tâm APPANĀ

7.

Appanājavanavāre pana vibhūtāvibhūtabhedo natthi. Tathā tadālambanuppādo ca.

Tattha hi ñāṇasampayuttakāmāvacarajavanānaṁ aṭṭhannaṁ aññatarasmiṁ parikammupacārānuloma- gotrabhū nāmena catukkhattum tikkhattum' eva vā yathākkamaṁ uppajjitvā niruddhe tadanantaram' eva yathārahaṁ catutthaṁ pañcamaṁ vā chabbīsati mahaggatalokuttarajavanesu yathābhinīhāravasena yaṁ kiñci javanaṁ appanāvīthimotarati. Tato paraṁ appanāvasāne bhavaṅgapāto'va hoti.

Tattha somanassasahagatajavanān'antaraṁ appanā' pi somanassasahagatā'va pāṭikaṇkhitabbā. Upekkhā- sahagatajavanānantaraṁ upekkhāsahagatā'va. Tatthā' pi kusalajavanānantaraṁ kusalajavanañ c'eva heṭṭhimañcaphalattayamappeti. Kriyājavanā- nantaraṁ kriyā javanaṁ arahattaphalañ ca appeti.

8.

Dvattiṁsa sukhapuññamhā dvādasopekkhakāparaṁ Sukhitakriyato aṭṭha cha sambhonti upekkhakā.

Puthujjanāna sekkhānaṁ kāmapuññā tihe tuto

Tihetukāmakriyato vitarāgānaṁ appanā.

Ayam' ettha manodvāre vīthi-cittappavattinayo.

§7

Trong phương cách diễn tiến của javana Appanā (tuyệt đối an trụ) (5) không có sự phân biệt giữa "sáng" và "tối". Cùng thế ấy không có tâm quả đăng ký.

Trong trường hợp nầy, bất luận tâm nào trong tám javanas thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến, khởi sanh, theo thứ tự, ba hoặc bốn lần, như chặp tâm "chuẩn bị" (parikamma), "cận hành" (upacāra), "thuận thứ" (anuloma), và "chuyển tánh" (gotrabhū). Tức khắc sau khi những chặp tâm nầy chấm dứt, trong chặp thứ tư hay thứ năm, tùy trường hợp, bất luận tâm javana nào trong 26 loại tâm Cao Thượng và Siêu Thế nhập vào tiến trình Thiền, tùy hợp theo sự cố gắng thích ứng.

Ở đây, tức khắc theo sau một javana với thọ hỷ, một javana appanā với thọ hỷ ắt sẽ khởi phát. Sau một javana đồng phát sanh với thọ xả, một javana appanā liên hợp với thọ xả ắt phát sanh.

Ở đây cũng vậy, một javana appanā thiện sẽ nối tiếp theo sau một javana thiện và (trong trường hợp chứng ngộ -- samāpatti), sẽ tạo duyên cho ba Quả thấp hơn khởi phát.

Sau một javana hành, sẽ có một javana hành và Quả A La Hán nối tiếp.

§8

Sau tâm thiện (có ba nhân, tihetuka) (6) liên hợp với thọ hỷ (7), 32 (loại tâm) (8) khởi phát; sau tâm thiện (có ba nhân) liên hợp với thọ xả, 12 loại (9); sau tâm hành (có ba nhân) liên hợp với thọ hỷ, 8 loại (10); và sau tâm hành (có ba nhân) liên hợp với thọ xả, có sáu loại tâm (11).

Ðối với hạng phàm nhân [1] và hạng "còn phải tu tập" (sekha) [2] tâm Quả appanā (phát khởi) sau tâm thiện có ba nhân thuộc Dục Giới, nhưng đối với những vị "không còn tham ái" [3] là sau tâm hành thuộc Dục Giới.

Ðây là phương cách diễn tiến của tiến trình tâm phát sanh qua ý môn.

Ghi chú:

[1] Phàm nhân, puthujāna, là những chúng sanh còn ở trong vòng luân hồi, tức chúng sanh trong Tam Giới: Dục, Sắc và Vô Sắc Giới.

[2] Sekhas là những vị đã đắc một trong ba tầng Thánh đầu tiên, và "còn phải tu tập" nữa để thành tựu tầng Thánh cuối cùng. Có nơi gọi là bậc "hữu học". Xem chương III.

[3] "Những vị không còn tham ái", tức chư vị A La Hán, cũng được gọi là asekhas, không còn phải tu tập nữa. Có nơi gọi là bậc "vô học".

Chú Giải

5. Appanā, Hoàn Toàn An Trụ.

(Saṁskrit -- arpaṇā, xuất nguyên từ căn "ri" là đi).

Ðây là một danh từ ít thấy dùng trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Phạn ngữ nầy xuất nguyên từ căn "i", đi.

Căn "I" + tiếp đầu ngữ có nghĩa là nguyên nhân "āpe" + "ana". "A" thay thế "i" và "p" trở thành "pp"; "A"+ ppe + ana = appanā. Chữ "ā" trong hình thức sơ khởi trở thành "a" trước cặp "pp".

Ngài Buddhaghosa định nghĩa "appanā" là hướng về, hay gắn liền, áp đặt tâm nhất điểm vào đối tượng (ekaggaṁ cittaṁ ārammaṇe appenti).

Appanā là một hình thức của chi Thiền tầm (vitakka), một chi của Sơ Thiền, phát triển đến mức cao độ.

Người hành thiền muốn phát triển Thiền chọn lấy một đề mục thích ứng, tùy hợp theo tâm tánh mình. Trong khi gia công hành thiền, như đã ghi trong chương I, hành giả đạt đến mức độ có thể chứng đắc Sơ Thiền.

Lúc ấy tiến trình tâm trôi chảy như sau:

Manodvārāvajjana
Ý Môn Hướng Tâm

Parikamma
Chuẩn Bị

Upacāra
Cận Hành

Anuloma
Thuận Thứ

Gotrabhū
Chuyển Tánh

Appanā
An Trụ

* * *

* * *

* * *

* * *

* * *

* * *

Chặp tư tưởng đầu tiên là ý môn hướng tâm, khởi phát liền trước giai đoạn javana, do các đối tượng nhập vào dòng tâm xuyên qua ý môn, tạo duyên để khởi phát.

Chặp tư tưởng (sát-na) sơ khởi của tiến trình javana appanā được gọi là parikamma (chuẩn bị), bởi vì nó là sự chuẩn bị để đưa đến tâm cao thượng hơn mà hành giả hằng mong mỏi, hoặc Cao Thượng (Mahaggata, Ðại Hành), hoặc Siêu Thế (Lokuttara). Liền tiếp theo sau chặp nầy là một chặp khác được gọi là upacāra (cận hành), bởi vì nó khởi phát kế cận loại tâm cao thượng. Thông thường hai chặp tâm nầy phát sanh đầu tiên trong tiến trình javana-appanā. Nhưng nhiều hành giả là người có một trình độ đạo đức khá cao thì chỉ có chặp upacāra (cận hành) khởi phát mà không có chặp parikamma (chuẩn bị) sơ khởi.

Chặp tư tưởng thứ ba trong tiến trình nầy được gọi là anuloma (thuận thứ), bởi vì nó khởi phát điều hòa và thuận chiều theo các chặp trước và chặp Gotrabhū (chuyển tánh) theo sau. Gotrabhū, theo nghĩa đen, là cái gì chế ngự dòng dõi Dục Giới [1], hay cái gì phát triển dòng giống cao thượng. Liền sau chặp Gotrabhū nầy, chặp Appanā-jhāna (sát-na tâm tuyệt đối an trụ) phát sanh. Ðến mức độ tâm cao thượng nầy, tâm tuyệt đối gom vào một điểm duy nhất.

Tâm Thiền (jhāna) mà không được phát triển trọn vẹn khởi hiện trong những chặp tâm đầu tiên được gọi là upacāra samādhi, cận định.

Ðối với hạng phàm nhân (puthujjana, chưa đắc Thánh Quả) và những bậc Thánh "còn phải tu tập nữa" (sekhas), bốn javanas thiện thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến phát sanh như những chặp appanā sơ khởi nầy. Trong trường hợp một vị A La Hán, đó là bốn javanas hành thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến.

Tiến trình appanā-javana Siêu Thế trôi chảy như sau:

1

2

3

4

5

6

7

Parikamma
Chuẩn Bị

Upacāra
Cận Hành

Anuloma
Thuận Thứ

Gotrabhū
Chuyển Tánh

Magga
Đạo

Phala
Quả

Phala
Quả

* * *

* * *

* * *

* * *

* * *

* * *

* * *

Trong tiến trình tâm nầy chặp parikamma (chuẩn bị) có thể phát sanh hay không phát sanh. Như đã ghi nhận ở trên, điều nầy tùy thuộc nơi trình độ tiến hóa tinh thần của người hành thiền. Ở đây Gotrabhū có nghĩa là cái gì khắc phục huyết thống phàm tục, hay cái gì phát triển dòng dõi Siêu Thế.

Một trong bốn javanas thiện thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến phát sanh trong giai đoạn sơ khởi nầy. Ðối tượng của ba chặp tư tưởng đầu tiên [2] là tại thế, nhưng đối tượng của chặp gotrabhū (chuyển tánh) là Niết Bàn siêu thế. Dầu sao, chặp tư tưởng đã được phát triển nầy không thể tận diệt những ô nhiễm cố hữu tiềm tàng. Chính chặp tâm Magga (Ðạo), theo kế liền sau đó, tác hành nhiệm vụ chứng ngộ Niết Bàn và tận diệt ô nhiễm. Phải nên ghi nhận rằng chặp tâm Magga (Ðạo) chỉ phát sanh một lần duy nhất. Tức khắc liền sau đó là hai chặp Phalas (Quả), nếu tiến trình có parikamma (chuẩn bị). Nếu là một tiến trình không có parikamma, như đã ghi trên, thì có ba chặp Quả (Phalas). Trong trường hợp các tầng Thánh thứ nhì, thứ ba, và thứ tư, chặp tư tưởng thứ ba, thay vì là gotrabhū (chuyển tánh), thì được gọi là vodāna, có nghĩa là thanh lọc.

Nếu tiến trình bắt đầu bằng chặp parikamma, thì vodāna là chặp thứ tư. Nếu không có chặp parikamma thì vodāna là chặp thứ ba.

Mỗi Ðạo (Magga) trong bốn Thánh Ðạo chỉ phát sanh một lần duy nhất trong suốt đời. Nhưng hành giả có thể chứng nghiệm Quả (Phala) liên tục cả ngày. Quả của ba tầng Thánh đầu tiên -- Tu Ðà Huờn Quả, Tư Ðà Hàm Quả, và A Na Hàm Quả -- theo sau javana thiện.

Trong trường hợp A La Hán Quả, javana tức khắc trước đó phải là hành, bởi vì một vị asekha (bậc Thánh không còn phải tu tập nữa) không còn chứng nghiệm javana thiện.

6. Tihetuka, Ba Nhân,

Ðược tạo duyên do ba nhân alobha (không-tham, tức quảng đại), adosa (không-sân, tức từ ái), và amoha (không- si, tức trí tuệ).

7. Tức hai loại tâm thuộc Dục Giới đồng phát sanh cùng thọ hỷ và tri kiến.

8. Ðó là 4 tâm Thiền Sắc Giới (rūpa Jhāna) đầu tiên và 28 (7x4) tâm Thiền Siêu Thế. A La Hán QuảHành không được kể ở đây.

9. Ðó là: 1 ngũ thiền Sắc Giới + 4 thiền Vô Sắc Giới + 7 ngũ thiền Siêu Thế (lokuttara pañcamajjhāna).

10. Ðó là 4 thiền Sắc Giới đầu tiên + 4 thiền A La Hán Quả đầu tiên.

11. Ðó là 1 ngũ thiền Sắc Giới + 4 thiền Vô Sắc Giới + 1 ngũ thiền A La Hán Quả.

Ghi chú:

[1] Tức dập tắt những đặc tính của Dục Giới.

[2] Tức Parikamma, Upacāra và Anuloma.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19842)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28952)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20682)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19416)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30484)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36417)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33206)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35540)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20967)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21911)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25254)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25786)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31240)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18552)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25134)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23762)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28928)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20855)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31444)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25544)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29719)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22514)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25710)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23268)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25733)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23717)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40597)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23346)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22442)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22088)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23500)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16957)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23282)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24303)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41093)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18975)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20472)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27720)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38112)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34060)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36784)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23991)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29176)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60130)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27600)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68719)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24510)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24474)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22686)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26350)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26522)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20815)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20047)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27547)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46414)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53572)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23595)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25557)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29247)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant