Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Phẩm Hóa thành dụ

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9271)
7. Phẩm Hóa thành dụ

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

  QUYỂN THỨ BA
PHẨM "HÓA THÀNH DỤ" (6) THỨ BẢY


 1. Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo: "Thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghì a-tăng-kỳ kiếp đã qua, lúc bấy giờ có đức Phật hiệu Đại-Thông Trí-Thắng Như -Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự -phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.

 Nước đó tên là Hảo-Thành, kiếp tên Đại-Tướng. Các Tỳ-kheo ! Từ khi đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu xa, thí như địa chủng trong cõi tam-thiên đại-thiên, giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi một nghìn cõi nước ở phương đông bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một nghìn cõi nước nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lần lượt chấm hết mực mài bằng địa chủng ở trên. Ý các ông nghĩ sao? Các cõi nước đó hoặc thầy toán có thể biết được ngằn mé số đó chăng?"

 - Thưa Thế-Tôn ! Không thể biết !

 - Các Tỳ-kheo ! Những cõi nước của người đó đi qua hoặc có chấm mực hoặc không chấm mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp. Ta dùng sức tri kiến của Như- Lai xem thuở lâu xa đó dường như hiện ngày nay.

 Bấy giờ , đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 2. Ta nhớ đời quá khứ

 Vô lượng vô biên kiếp

 Có Phật Lưỡng-Túc-Tôn

 Hiệu Đại-Thông Trí-Thắng

 Như người dùng sức mài

 Cõi tam-thiên đại-thiên

 Hết tất cả địa chủng

 Thảy đều làm thành mực

 Quá hơn nghìn cõi nước

 Bèn chấm mỗi điểm trần

 Như thế lần lựa chấm

 Hết các mực trần nầy.

 Bao nhiêu cõi nước đó

 Điểm cùng chẳng điểm thảy

 Lại đều nghiền làm bụi

 Một bụi làm một kiếp

 Kiếp số lâu xa kia

 Lại nhiều hơn số bụi

 Phật đó diệt đến nay

 Vô lượng kiếp như thế

 Trí vô ngại của Phật

 Biết Phật đó diệt độ

 Và Thanh-văn Bồ-Tát

 Như hiện nay thẩy diệt.

 Các Tỳ-kheo nên biết.

 Trí Phật tịnh vi diệu

 Vô lậuvô ngại

 Suốt thấu vô lượng kiếp.
 3. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo : "Đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp, đức Phật đó khi trước lúc ngồi đạo tràng phá ma rồi, sắp được đạo vô-thượng chánh-đẳng, chánh-giác mà Phật pháp chẳng hiện ra trước, như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng thân và tâm đều không động mà các Phật pháp còn chẳng hiện ra trước.

 Thuở đó, các vị trời Đao-Lợi ở dưới cội cây Bồ-đề đã trước vì đức Phật đó mà trải toà sư-tử cao một do tuần (7) , Phật ngồi nơi tòa nầy sẽ được đạo vô-thượng, chánh-đẳng, chánh-giác. Khi Phật vừa ngồi trên tòa đó các trời Phạm-Thiên-Vương rưới những hoa trời khắp bốn mươi do tuần, gió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp hoa héo rồi rưới hoa mới mãi như thế không ngớt mãn mười tiểu kiếp để cúng dường đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt độ thường rưới hoa nầy. Các trời Tứ-thiên-vương vì cúng dường Phật nên thường đánh trống trời. Ngoài ra các vị trời khác trỗi kỹ nhạc trời, mãn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũng lại như thế.

 Các Tỳ-kheo! Đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật quá mười tiểu kiếp các Phật pháp hiện ra trước thành đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.

 Lúc Phật chưa xuất gia có mười sáu người con trai, người con cả tên Trí-Tích. Các người con đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe cha chứng đặng quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác đều bỏ đồ báu của mình đi đến chỗ Phật. Các người mẹ khóc lóc theo đưa".

 Ông nội là vua Chuyển-luân-thánh-vương, cùng một trăm vị đại thần và trăm nghìn muôn ức nhân dân khác đều vây quanh nhau đi theo đến đạo tràng, mọi người đều đến gần gũi đức Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai để cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen. Khi đã đến nơi tất cả đem đầu mặt mình lạy chân Phật, đi vòng quanh đức Phật xong, đều chắp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, rồi nói kệ khen Phật :
 4. Thế-Tôn oai đức lớn

 Vì muốn độ chúng sanh

 Trong vô lượng ức năm

 Bèn mới được thành Phật

 Các nguyện đã đầy đủ

 Hay thay lành vô thượng

 Thế-Tôn rất ít có

 Một phen ngồi mười kiếp

 Thân thể và tay chân

 Yên tịnh không hề động

 Tâm Phật thường lặng

 Chưa từng có tán loạn

 Trọn rốt ráo vắng bặt

 An trụ pháp vô lậu

 Ngày nay thấy Thế-Tôn

 An ổn thành Phật đạo

 Chúng con được lợi lành

 Mừng rỡ rất vui đẹp.

 Chúng sanh thường đau khổ

 Đui mù không Đạo-Sư

 Chẳng biết đạo dứt khổ

 Chẳng biết cầu giải thoát

 Lâu ngày thêm nẻo ác

 Giảm tổn các chúng trời

 Từ tối vào nơi tối

 Trọn chẳng nghe danh Phật.

 Nay Phật được vô thượng

 Đạo an ổn vô lậu

 Chúng ta và trời người

 Vì được lợi lớn tột

 Cho nên đều cúi đầu

 Quy mạng (8) đấng vô thượng.
 5. Bấy giờ mười sáu vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi liền khuyến thỉnh đức Thế-Tôn chuyển pháp luân, đều thưa rằng : "Đức Thế-Tôn nói pháp được an ổn, thương xót làm lợi ích cho các trời và nhân dân". Lại nói kệ rằng:

 Đức Phật không ai bằng

 Trăm phước tự trang nghiêm

 Được trí huệ vô thượng

 Nguyện vì đời nói pháp

 Độ thoát cho chúng con

 Và các loài chúng sanh

 Xin phân biệt chỉ bày

 Cho được trí huệ Phật

 Nếu chúng con cũng thành Phật

 Chúng sanh cũng được thế

 Thế-Tôn biết chúng sanh

 Thâm tâm nghĩ tưởng

 Cũng biết đạo chúng làm

 Lại biết sức trí huệ

 Muốn ưa và tu phước

 Nghiệp gây tạo đời trước

 Thế-Tôn biết cả rồi

 Nên chuyển pháp vô thượng.
 6. Phật bảo các Tỳ-kheo : "Lúc đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật được quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, trong mười phương, mỗi phương đều năm trăm muôn ức các cõi nước Phật sáu điệu vang động. Trong các cõi nước đó chỗ tối tăm ánh sáng của nhật nguyệt không soi tới được mà đều sáng rỡ, trong đó chúng sanh đều được thấy nhau, đồng nói rằng : "Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh?".

 7. Lại trong các cõi đó cung điện của chư Thiên cho đến Phạm-Cung sáu điệu vang động, hào quang lớn soi cùng khắp đầy cõi nước, sáng hơn ánh sáng của trời". Bấy giờ, phương Đông, năm trăm muôn ức các cõi nước, cung điện của trời Phạm-Thiên (9) ánh sáng soi chói gấp bội hơn ánh sáng thường ngày, các Phạm-Thiên-Vương đều tự nghĩ rằng : "Hôm nay cung điện sáng suốt từ xưa chưa từng có, vì nhân duyên gì mà hiện điềm tốt này?". Lúc đó các vị Phạm-Thiên-Vương liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Trong chúng có một vị Phạm-Thiên-Vương lớn tên Cứu-Nhứt-Thiết vì các Phạm-chúng mà nói kệ rằng :

 Các cung điện chúng ta

 Sáng suốt xưa chưa có

 Đây là nhân duyên

 Phải nên chung nhau tìm

 Là trời đại đức sanh

 Hay là Phật ra đời

 Mà ánh sáng lớn này

 Khắp soi cả mười phương.

 Bấy giờ, năm trăm muôn ức cõi nước, các vị Phạm-Thiên-Vương cùng chung với cung điện (10) mỗi vị đều lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đi đến phương Tây suy tìm tướng sáng đó. Thấy đức Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai ngồi tòa sư-tử ở nơi đạo tràng dưới cội Bồ-đề, hàng chư Thiên, Long-vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn và phi nhơn v.v... cung kính vây quanh đức Phật chuyển pháp luân; tức thời các vị Phạm-Thiên-Vương đầu mặt lạy chân Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật.

 Hoa của mấy ông rải nhóm như núi Diệu-Cao, cùng để cúng-dường cây Bồ-đề của Phật, cây Bồ-đề đó cao mười do-tuần. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đem cung điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng : " Xin đức Phật đoái thương lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây xin nhận ở."

 Lúc đó, các vị Phạm-Thiên-Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:

 Thế-Tôn rất ít có

 Khó thể gặp gỡ được

 Đủ vô lượng công đức

 Hay cứu hộ tất cả

 Thầy lớn của trời người

 Thương xóttrong đời

 Mười phương các chúng sanh

 Khắp đều nhờ lợi ích.

 Chúng con từng theo đến

 Năm trăm muôn ức nước

 Bỏ vui thiền định sâu

 Vì để cúng dường Phật

 Chúng con phước đời trước

 Cung điện rất tốt đẹp

 Nay đem dưng Thế-Tôn

 Cúi xin, thương nạp thọ.

 Bấy giờ, các vị Phạm-Thiên-Vương nói kệ khen đức Phật rồi thưa rằng: "Cúi xin đức Thế-Tôn chuyển-pháp-luân, độ thoát chúng sanh mở đường Niết-bàn." Khi ấy, các vị Phạm-Thiên-Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ rằng:

 Thế-Hùng Lưỡng-Túc-Tôn

 Cúi xin diễn nói pháp

 Dùng sức từ bi lớn

 Độ chúng sanh khổ não.

 Lúc đó đức Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai lắng yên nhận lời đo.ù (11)
 8. Lại nữa các Tỳ-kheo! Phương đông nam năm trăm muôn ức cõi nước các vị Phạm-Thiên-Vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hy hữu, liền cùng đến nhau chung bàn việc đó. Lúc ấy trong chúng đó có một vị Phạm-Thiên-Vương tên là Đại-Bi, vì các Phạm-chúng mà nói kệ rằng:

 Việc đó nhân duyên

 Mà hiện tướng như thế?

 Các cung điện chúng ta

 Sáng suốt xưa chưa từng có

 Là trời Đại-đức sanh

 Hay là Phật ra đời?

 Chưa từng thấy tướng nầy

 Nên chung một lòng cầu

 Quá nghìn muôn ức cõi

 Theo luồng sáng tìm đến

 Phần nhiều Phật ra đời

 Độ thoát khổ chúng sanh.

 Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm-Thiên-Vương cùng chung với cung điện, lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đến phương Tây-Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Đại-ThôngTrí-Thắng Như-Lai ngồi tòa sư-tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ-đề, các hàng chư Thiên, Long- vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùng phi-nhơn v.v... cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển- pháp-luân.

 Khi ấy các vị Phạm-Thiên-Vương đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu-Cao, cùng để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dâng lên đức Phật mà thưa rằng: "Xin Phật thương xót lợi ích cho chúng con, những cung điện dâng đây cúi xin nhận ở".

 Lúc đó, các vị Phạm-Thiên-Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:

 Thánh Chúa vua trong trời

 Tiếng Ca-lăng-tần-già

 Thương xót hàng chúng sanh

 Chúng con nay kính lễ.

 Thế-Tôn rất ít có

 Lâu xa một lần hiện

 Một trăm tám mươi kiếp

 Luống qua không có Phật

 Ba đường dữ dẫy đầy

 Các chúng trời giảm ít.

 Nay Phật hiện ra đời

 Làm mắt cho chúng sanh

 Chỗ quy thú của đời

 Cứu hộ cho tất cả

 Là cha của chúng sanh

 Thương xót làm lợi ích

 Nhờ phước lành đời trước

 Nay được gặp Thế-Tôn.

 Khi đó, các vị Phạm-Thiên-Vương nói kệ khen Phật xong đều thưa rằng: "Cúi xin đức Thế-Tôn thương xót tất cả chuyển-pháp-luân cho, để độ thoát chúng sanh".

 Lúc ấy, các vị Phạm-Thiên-Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ khen rằng:

 Đại-Thánh chuyển-pháp-luân

 Chỉ bày các pháp tướng

 Độ chúng sanh đau khổ

 Khiến được rất vui mừng

 Chúng sanh nghe pháp này

 Được đạo hoặc sanh thiên

 Các đường dữ giảm ít

 Bậïc nhẫn thiện thêm nhiều.

 Khi đó, đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật lặng yên nhận lời.
 9. Lại nữa các Tỳ-kheo! năm trăm muôn ức cõi nước ở phương Nam các vị đại Phạm-vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hy hữu liền đến cùng nhau chung bàn việc đó. Vì nhân duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng chói này? Trong chúng đó có một vị Phạm-Thiên-Vương lớn tên là Diệu-Pháp, vì hàng Phạm-chúng mà nói kệ rằng:

 Các cung điện chúng ta

 Quang minh rất oai diệu

 Đây không phải không nhân

 Tướng nầy phải tìm đó

 Quá hơn trăm nghìn kiếp

 Chưa từng thấy tướng nầy

 Là trời đại đức sanh

 Hay đức Phật ra đời?

 Bấy giờ, năm trăm muôn ức Phạm-Thiên-Vương cùng cung điện chung, mỗi vị dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai ngồi tòa sư-tử nơi đạo tràng dưới cội cây Bồ-đề, hàng chư Thiên, Long-vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhơn và phi-nhơn v.v..., cung kính vây quanh, cùng thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển-pháp-luân.

 Khi đó, các vị Phạm-Thiên-Vương đầu mặt lễ Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu-Cao và để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đều đem cung điện dâng lên đức Phật mà thưa rằng: "Xin đức Phật đoái thương lợi ích chúng con, cung điện của chúng con dâng đây cúi xin nạp xử". Bấy giờ, các vị đại Phạm-Thiên-Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:

 Thế-Tôn rất khó thấy

 Bậâïc phá các phiền não

 Hơn trăm ba mươi kiếp

 Nay mới thấy một lần

 Hàng chúng sanh đói khát

 Nhờ mưa pháp đầy đủ

 Xưa chỗ chưa từng thấy

 Đấng vô lượng trí huệ

 Như hoa Ưu-đàm-bát

 Ngày nay mới gặp gỡ

 Cung điện của chúng con

 Nhờ hào quang được đẹp

 Thế-Tôn đại từ mẫn

 Cúi xin thương nhận ở.

 Khi đó, các vị Phạm-Thiên-Vương nói kệ khen đức Phật rồi đều bạch rằng: "Cúi mong đức Thế-Tôn chuyển-pháp-luân làm cho tất cả thế gian các hàng Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Ba-la-môn đều được an ổn mà được độ thoát". Lúc ấy các vị Phạm-Thiên-Vương một lòng đồng tiếng nói kệ rằng:

 Cúi mong Thiên-Nhân-Tôn

 Chuyển-pháp-luân vô thượng

 Đánh vang pháp cổ lớn

 Mà thổi pháp loa lớn

 Độ vô lượng chúng sanh

 Chúng con đều quy thỉnh

 Nên nói tiếng sâu xa.

 Khi đó, đức Đại-Thông Trí-Thắng lặng yên nhận lời đó.
 10. Phương Tây-Nam nhẫn đến phương dưới cũng lại như thế.

 Bấy giờ, năm trăm muôn ức cỏi nước ở thượng phương, các vị đại Phạm-Thiên-Vương thảy đều tự thấy cung điện của mình ở ánh sáng chói rực từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hy hữu, liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Vì nhân duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy? Lúc đó trong chúng có một vị đại Phạm-Thiên-Vương tên là Thi-Khí vì hàng Phạm-chúng mà nói kệ rằng:

 Nay vì nhân duyên gì?

 Cung điện của chúng ta

 Ánh sáng oai đức từng có?

 Tướng tốt như thế đó

 Xưa chưa từng nghe thấy

 Là trời Đại-đức sanh

 Hay là Phật ra đời?

 Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm-Thiên-Vương cùng cung điện chung, mỗi vị đều dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương dưới suy tìm tướng sáng đó. Thấy đức Đại-Thông-Trí Như- Lai ngồi tòa sư-tử nơi đạo tràng dưới gốc Bồ-đề, hàng chư Thiên, Long-vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhơn và phi-nhơn v.v... cung kính vây quanh và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh đức Phật chuyển-pháp-luân.

 Lúc đó, các vị Phạm-Thiên-Vương đầu mặt lạy Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật. Hoa rải nhóm như núi Diệu-Cao và để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dâng lên đức Phật mà bạch rằng: "Xin đoái thương lợi ích chúng con. Cung điện dâng đây cúi mong Phật nạp ở".

 Lúc đó, các vị Phạm-Thiên-Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:

 Hay thay! thấy các Phật

 Đấng Thánh-Tôn cứu thế

 Hay ở ngục tam giới

 Cứu khỏi các chúng sanh

 Thiên-Nhân-Tôn trí khắp

 Thương xót loài quần manh

 Hay khai môn cam lộ

 Rộng độ cho tất cả.

 Lúc xưa vô lượng kiếp

 Luống qua không có Phật

 Khi Phật chưa ra đời

 Mười phương thường mờ tối

 Ba đường dữ thêm đông

 A-tu-la cũng thạnh

 Các chúng trời càng bớt

 Chết nhiều đọa ác đạo

 Chẳng theo Phật nghe pháp

 Thường làm việc chẳng lành

 Sắc, lực, cùng trí huệ

 Các việc đều giảm ít

 Vì tội nghiệp nhân duyên

 Mất vui cùng tưởng vui

 Trụ trong pháp tà kiến

 Chẳng biết nghi tắc lành

 Chẳng nhờ Phật hóa độ

 Thường đọa trong ác đạo.

 Phật là mắt của đời

 Lâu xa mới hiện ra

 Vì thương các chúng sanh

 Nên hiện ở trong đời

 Siêu việt thành chánh-giác

 Chúng con rất mừng vui

 Và tất cả chúng khác

 Mừng khen chưa từng có

 Cung điện của chúng con

 Nhờ hào quang nên đẹp

 Nay đem dâng Thế-Tôn

 Cúi mong thương nhận ở

 Nguyện đem công đức này

 Khắp đến cho tất cả

 Chúng con cùng chúng sanh

 Đều đồng thành Phật đạo.

 Khi đó, năm trăm muôn ức các vị Phạm-Thiên-Vương nói kệ khen đức Phật rồi, đều bạch Phật rằng: "Cúi mong đức Thế-Tôn chuyển-pháp-luân, nhiều chỗ an ổn, nhiều chỗ độ thoát". Lúc ấy các vị Phạm-thiên-vương đồng nói kệ rằng:

 Thế-Tôn chuyển-pháp-luân

 Đánh trống pháp cam lộ

 Độ chúng sanh khổ não

 Mở bày đường Niết-bàn

 Cúi mong nhận lời con

 Dùng tiếng vi diệu lớn

 Thương xót mà nói bày

 Pháp tu vô lượng kiếp.
 11. Lúc bấy giờ, Đại-Thông Trí-Thắng Như-Lai nhận lời thỉnh của các Phạm-thiên-vương và mười sáu vị vương-tử tức thời ba phen chuyển-pháp-luân mười hai hành (12) hoặc là Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc là Trời, Ma, Phạm và các thế gian khác đều không thể chuyển được, nói: Đây là khổ,đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ.

 Và rộng nói pháp mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, tử, ưu bi, khổ não.

 Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão, tử, ưu bi, khổ não diệt.

 Đức Phật ở trong đại chúng trời, người khi nói pháp đó có sáu trăm muôn ức na-do-tha người do vì không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải thoát, đều được thiền định sâu mầu, ba món minh, sáu món thông, đủ tám giải thoát.

 Lúc nói pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, có nghìn muôn ức hằng-hà- sa na-do-tha chúng sanh cũng bởi không thọ tất cả pháp mà nơi các lậu tâm được giải thoát. Từ đây nhẫn sau các chúng Thanh-văn nhiều vô lượng vô biên, không thể tính kể được.
 12. Bấy giờ mười sáu vị vương-tử đều là đồng tửxuất gia làm Sa-di, các căn thông lanh, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức các đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, đều bạch cùng Phật rằng: "Thưa Thế-Tôn! Các vị Đại-đức Thanh-văn vô lượng nghìn muôn ức đây đã thành tựu xong, đức Thế-Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học Thế-Tôn! Chúng con có chí mong được tri kiến của Như Lai chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm, đức Phật tự chứng biết cho.

 Lúc đó, tám muôn ức người trong chúng của Chuyển-luân-thánh-vương dắt đến thấy mười sáu vị vương-tử xuất gia, cũng tự cầu xuất gia, vua liền thuận cho.

 Bấy giờ, đức Phật nhận lời thỉnh của Sa-di, qua hai muôn kiếp sau mới ở trong hàng bốn chúng nói kinh Đại-thừa tên là: "Diệu-Pháp Liên Hoa"là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm. Đức Phật nói kinh đó xong, mười sáu vị Sa-di vì đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, đều đồng thọ thì đọc tụng thông thuộc. Lúc nói kinh đó, mười sáu vị Sa-di Bồ-Tát thảy đều tin thọ trong chúng Thanh-văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra nghìn muôn ức loại chúng sanh đều sanh lòng nghi lầm. Phật nói kinh đó suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói kinh đó xong liền vào tịnh thất trụ trong thiền định tám muôn bốn nghìn kiếp.
 13. Bấy giờ, mười sáu vị Bồ-Tát Sa-di biết Phật nhập thất trụ trong thiền định vắng bặt, mỗi vị đều lên pháp tòa cũng trong tám muôn bốn nghìn kiếp vì bốn bộ chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu-Pháp Liên Hoa.

 14. Mỗi vị đều độ sáu trăm muôn ức na-do-tha hằng hà-sa chúng sanh, chỉ dạy cho được lợi mừng, khiến phát tâm vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật qua tám muôn bốn nghìn kiếp sau từ tam-muội dậy, qua đến pháp tòa mà ngồi an lành, khắp bảo trong hàng đại chúng: "Mười sáu vị Bồ-Tát Sa-di này rất là ít có, các căn thông lẹ, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường vô lượng nghìn muôn ức số đức Phật, ở chỗ các đức Phật thường tu hạnh thanh tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúng sanh làm cho vào trong đó. Các ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy.

 15. Vì sao? Nếu hàng Thanh-văn, Duyên-giác cùng các Bồ-Tát có thể tin kinh pháp của mười sáu vị Bồ-Tát Sa-di đó nói mà thọ trì không mất, thì người đó sẽ được đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác trí huệ của Như-Lai". Phật bảo các Tỳ-kheo: "Mười sáu vị Bồ-Tát đó thường ưa nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa nầy. Sáu trăm muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa chúng sanh của mỗi vị Bồ-Tát hóa độ đó đời đời sanh ra đều cùng Bồ-Tát ở chung, theo nghe pháp với Bồ-Tát thảy đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó mà được gặp bốn muôn ức các đức Phật Thế-Tôn đến nay vẫn chẳng ngớt.

 Các Tỳ-kheo! Ta nói với các ông mười sáu vị Sa-di đệ tử của đức Phật kia nay đều chứng được đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, hiện đang nói pháp trong cõi nước ở mười phươngvô lượng trăm nghìn muôn ức Bồ-Tát Thanh-văn để làm quyến thuộc.

 Hai vị Sa-di làm Phật ở phương Đông: Vị thứ nhất tên là A-Súc ở nước Hoa-Hỷ, vị thứ hai tên là Tu-Di-Đỉnh.

 Hai vị làm Phật ở phương Đông-Nam: Vị thứ nhứt tên là Sư-Tử-Âm, vị thứ hai tên là Sư-Tử-Tướng.

 Hai vị làm Phật ở phương Nam: Vị thứ nhứt tên là Hư-Không-Trụ, vị thứ hai tên làThường-Diệt.

 Hai vị làm Phật ở phương Tây-Nam: Vị thứ nhứt tên là Đế-Tướng, vị thứ hai tên là Phạm-Tướng.

 Hai vị làm Phật ở phương Tây: Vị thứ nhứt tên là A-Di-Đà, vị thứ hai tên là Độ-Nhứt-Thiết Thế-Gian Khổ-Não.

 Hai vị làm Phật ở phương Tây-Bắc: Vị thứ nhứt tên là Đa-Ma-La-Bạt Chiên-Đàn-Hương Thần Thông, vị thứ hai tên là Tu-Di-Tướng.

 Hai vị làm Phật ở phương Bắc: Vị thứ nhứt tên là Vân-Tự-Tại, vị thứ hai tên là Vân-Tự-Tại-Vương.

 Một vị làm Phật ở phương Đông-Bắc hiệu Hoại-Nhứt-Thiết Thế-Gian Bố-Úy.

 Vị thứ mười sáu, chính ta là Thích-Ca Mâu-Ni Phật ở cõi nước Ta-bà thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.

 Các Tỳ-kheo! Lúc chúng ta làm Sa-di mỗi người giáo hóa vô lượng trăm nghìn muôn ức hằng-hà-sa chúng sanh vì đạo vô-thượng chánh-đẳng, chánh-giác theo ta nghe pháp. Những chúng sanh đó đến nay có người trụ bậc Thanh-văn, ta thường giáo hóa pháp vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Những bọn người này đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo.

 Vì sao? Vì trí huệ của Như-Lai khó tin khó hiểu, vô lượng hằng-ha- sa chúng sanh bị hóa độ trong thuở đó chính là bọn ông, các Tỳ-kheo, và sau khi ta diệt độ các đệ tử Thanh-văn trong đời vị lai. Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe kinh này, không biết không hay hạnh của Bồ-Tát, tự ở nơi công đức của mình được tưởng cho là diệt độ sẽ nhập Niết-bàn.

 Ta ở nơi nước khác làm Phật lại có tên khác. Người đó dầu sanh lòng tưởng là diệt độ nhập Niết-bàn, nhưng ở nơi cõi kia cầu trí huệ của Phật, được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không có thừa nào khác, trừ các đức Như-Lai phương tiện nói pháp.

 Các Tỳ-kheo! Nếu đức Như-Lai tự biết giờ Niết-bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh lòng tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp không, sâu vào thiền định, bèn nhóm các Bồ-Tát và chúng Thanh-văn mà vì nói kinh nầy. Trong đời không có hai thừa mà được diệt độ, chỉ có một Phật thừa được diệt độ thôi.

 Các Tỳ-kheo nên rõ! Đức Như-Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết chí nó ưa pháp nhỏ, rất ham nơi năm món dục vì hạng người này mà nói Niết-bàn, người đó nếu nghe thời liền tin nhận.
 16. Thí dụ đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do tuần. Chốn ghê sợ hoang vắng không người. Nếu chúng đông muốn đi qua con đường nầy đến chỗ trân bửu, có một vị Đạo-Sư thông minh sáng suốt khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhân muốn vượt qua nạn đó. Chúng nhân được dắt đi giữa đường lười mỏi bạch đạo sư rằng: "Chúng con mệt nhọc lại thêm sợ sệt chẳng có thể đi nữa, đường trước còn xa nay muốn lui về".

 Vị Đạo-Sư nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: Bọn này đáng thương, làm sao cam bỏ trân bảo lớn mà muốn lui về. Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng nhân rằng: " Các người chớ sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có thể dừng ở trong đó tùy ý muốn làm gì thì làm, nếu vào thành nầy sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại thẳng đến chỗ châu báu đi cũng được".

 Bấy giờ, chúng mỏi mệt rất vui mừng khen chưa từng có, chúng ta hôm nay khỏi được đường dữ rất được an ổn. Đó rồi chúng nhân thẳng vào hóa thành sanh lòng tưởng cho rằng đã được độ rất an ổn.

 Lúc ấy Đạo-Sư biết chúng nhơn đó đã được nghỉ ngơi không còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành bảo chúng nhơn rằng: "Các người nên đi tới, chỗ châu báugần đây, thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nghỉ ngơi thôi".

 Các Tỳ-kheo! Đức Như-Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị đại Đạo-Sư, biết các đường dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên vượt qua. Nếu như chúng sanh chỉ nghe một Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần gũi, mà nghĩ thế nầy: "Đạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có thể được thành". Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt, dùng sức phương tiện mà ở giữa đường vì để ngơi nghỉ nên nói hai món Niết-bàn. (13)

 Nếu chúng sanh trụ nơi hai bực, đức Như-Lai bấy giờ liền bèn vì nói:" Chỗ tu của các ông chưa xong, bâïc của các ông ở gần với huệ của Phật. Phải quan sát suy lường Niết-bàn đã được đó chẳng phải chân thật vậy. Chỉ là sức phương tiện của Như-Lai, ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Như vị Đạo-Sư kia vì cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa thành lớn, đã biết nghĩ xong mà bảo đó rằng: " Chỗ châu báu ở gần, thành nầy không phải thật, của ta biến hóa làm ra đó thôi".

 Lúc đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 17. Đại-Thông Trí-Thắng Phật

 Mười kiếp ngồi đạo tràng

 Phật Pháp chẳng hiện tiền

 Chẳng được thành Phật đạo

 Các trời, thần, Long-vương

 Chúng A-tu-la thảy

 Thường rưới các hoa trời

 Để cúng dường Phật đó

 Chư thiên đánh trống trời

 Và trổi các kỹ nhạc

 Gió thơm thổi hoa héo

 Lại mưa hoa tốt mới

 Quá mười tiểu kiếp rồi

 Mới được thành Phật đạo

 Các trời cùng người đời

 Lòng đều sanh hớn hở.

 Mười sáu người con Phật

 Đều cùng quyến thuộc mình

 Nghìn muôn ức vây quanh

 Chung đi đến chỗ Phật

 Đầu mặt lạy chân Phật

 Thỉnh Phật chuyển-pháp-luân

 "Đấng Thánh-Sư mưa pháp

 Lợi con và tất cả

 Thế-Tôn rất khó gặp

 Lâu xa một lần hiện

 Vì giác ngộ quần sanh

 Mà chấn động tất cả".

 Các thế giới phương Đông

 Năm trăm muôn ức cõi

 Phạm cung điện sáng chói

 Từ xưa chưa từng có

 Phạm-vương thấy tướng này

 Liền đến chỗ Phật ở

 Rải hoa để cúng dường

 Và dâng cung điện lên

 Thỉnh Phật chuyển-pháp-luân

 Nói kệ khen ngợi Phật

 Phật biết chưa đến giờ

 Nhận thỉnh yên lặng ngồi

 Ba phương cùng bốn phía

 Trên, dưới cũng như thế

 Rưới hoa dâng cung điện

 Thỉnh Phật chuyển-pháp-luân

 "Thế-Tôn rất khó gặp

 Nguyện vì bổn từ bi

 Rộng mở cửa cam-lộ

 Chuyển-pháp-luân vô-thượng. "
 18. Thế-Tôn huệ vô thượng

 Nhân chúng nhơn kia thỉnh

 Vì nói các món pháp

 Bốn đế, mười hai duyên

 Vô minh đến lão tử

 Đều từ sanh duyên hữu

 Những quá hoạn như thế

 Các ông phải nên biết

 Tuyên nói pháp đó rồi

 Sáu trăm muôn ức cai (14)

 Được hết các ngằn khổ

 Đều thành A-la-hán.

 Thời nói pháp thứ hai

 Ngàn vạn hằng sa chúng

 Ở các pháp chẳng thọ

 Cũng được A-la-hán,

 Từ sau đây được đạo

 Số đông đến vô lượng

 Muôn ức kiếp tính kể

 Không thể đặng ngằn mé.
 19. Bấy giờ mười sáu vị

 Xuất gia làm Sa-di

 Đều đồng thỉnh Phật kia

 Diễn nói pháp Đại thừa:

 " Chúng con cùng quyến thuộc

 Đều sẽ thành Phật đạo

 Nguyện được như Thế-Tôn

 Tuệ nhãn sạch thứ nhứt."

 Phật biết lòng đồng tử

 Chỗ làm của đời trước

 Dùng vô lượng nhân duyên

 Cùng các món thí dụ

 Nói sáu Ba-la-mật

 Và các việc thần thông,

 Phân biệt pháp chân thật

 Đạo của Bồ-Tát làm

 Nói kinh Pháp-Hoa nầy

 Kệ nhiều như hằng sa.

 Phật kia nói kinh rồi

 Vào tịnh thất nhập định

 Tám vạn bốn ngàn kiếp

 Một lòng ngồi một chỗ.

 Các vị Sa-di đó

 Biết Phật chưa xuất thiền

 Vì vô lượng chúng nói

 Huệ vô thượng của Phật

 Mỗi vị ngồi pháp tòa

 Nói kinh Đại-thừa này

 Sau khi Phật yên lặng

 Tuyên bày giúp giáo hóa.

 Mỗi vị Sa-di thảy

 Số chúng sanh mình độ

 Có sáu trăm muôn ức

 Hằng-ha-sa các chúng.

 Sau khi Phật diệt độ

 Các người nghe pháp đó

 Ở các nơi cõi Phật

 Thường cùng thầy sanh chung.

 Mười sáu Sa-di đó

 Đầy đủ tu Phật đạo

 Nay hiện ở mười phương

 Đều được thành Chánh-giác

 Người nghe pháp thuở đó

 Đều ở chỗ các Phật

 Có người trụ Thanh-văn

 Lần dạy cho Phật đạo.

 Ta ở số mười sáu

 Từng vì các ngươi nói

 Cho nên dùng phương tiện

 Dẫn dắt đến huệ Phật

 Do bản nhân duyên đó

 Nay nói kinh Pháp Hoa

 Khiến ngươi vào Phật đạo

 Dè dặt chớ kinh sợ.
 20. Thí như đường hiểm dữ

 Xa vắng nhiều thú độc

 Và lại không cỏ nước

 Chốn mọi người ghê sợ

 Vô số nghìn muôn chúng

 Muốn qua đường hiểm này

 Đường đó rất xa vời

 Trải năm trăm do tuần.

 Bấy giờ một Đạo-Sư

 Nhớ dai có trí huệ

 Sáng suốt lòng quyết định

 Đường hiểm cứu các nạn

 Mọi người đều mệt mỏi

 Mà bạch Đạo-Sư rằng:

 "Chúng con nay mỏi mệt

 Nơi đây muốn trở về".

 Đạo-Sư nghĩ thế này:

 Bọn này rất đáng thương

 Làm sao muốn lui về

 Cam mất trân bảo lớn?

 Liền lại nghĩ phương tiện

 Nên bày sức thần thông

 Hóa làm thành quách lớn

 Các nhà cửa trang nghiêm

 Bốn bề có vườn rừng

 Sông ngòi và ao tắm

 Cửa lớn lầu gác cao

 Trai, gái đều đông vầy.

 Hóa ra thành đó rồi

 An ủi chúng:" Chớ sợ

 Các ngươi vào thành này

 Đều được vừa chỗ muốn".

 Mọi người đã vào thành

 Lòng đều rất vui mừng

 Đều sanh tưởng an ổn

 Tự nói đã được độ.

 Đạo-Sư biết nghỉ xong

 Nhóm chúng mà bảo rằng:

 "Các ngươi nên đi nữa

 Đây là hóa thành thôi

 Thấy các ngươi mỏi mệt

 Giữa đường muốn lui về

 Nên dùng sức phương tiện

 Ta hóa làm thành này

 Các ngươi gắng tinh tấn

 Nên đồng đến chỗ báu.
 21. Ta cũng lại như vậy

Đạo-Sư của tất cả

Thấy những người cầu đạo

Giữa đường mà lười bỏ

Không thể vượt đường dữ

Sanh tử đầy phiền não

Nên dùng sức phương tiện

Vì nghỉ nói Niết-bàn.

Rằng các ngươi khổ diệt

Chỗ làm đều đã xong

Đã biết đến Niết-bàn

Đều chứng A-la-hán

Giờ mới nhóm đại chúng

Vì nói pháp chân thật

Sức phương tiện các Phật

Phân biệt nói ba thừa

Chỉ có một Phật thừa

Vì nghỉ nên nói hai ( 15)

Vì các ngươi nói thật

Các ngươi chưa phải diệt,

Vì nhứt-thiết-trí Phật

Nên phát tinh tấn mạnh

Ngươi chứng nhứt-thiết-trí

Mười lực các Phật Pháp

Đủ băm hai tướng tốt

Mới là chân thật diệt,

Các Phật là Đạo-Sư

Vì nghỉ nói Niết-bàn

Đã biết ngơi nghỉ rồi

Dẫn vào nơi huệ Phật.
 
 
KINH DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA
Quyển thứ ba

Một tiếng kín bày, thần thông giáo hóa thầm gia hộ, khắp rưới mưa pháp nhuần các mầm, quả báo nhà rộng lớn, chốn châu báu không xa, quyền biến hóa đồng hoa đốm hư không.

Nam-Mô Pháp-Hoa Hội-Thượng-Phật Bồ-Tát (3 lần)

Ba căn khắp nhuần, đệ tử nhờ ơn, thành biến hóa dối bàychớ cho là chân, lại xem nhân duyên đức Trí-Thắng, mười sáu vị Vương-Tôn tám phương chứng thân vàng.

Nam-Mô Đại-Thông Trí-Thắng Phật (3 lần)
 
 

THÍCH NGHĨA

 1. Đây tức là "nhứt-thiết chủng-trí" trí của Phật, rõ thấu rành suốt ba thuở mười phương tất cả thế-gian và xuất-thế-gian.
 2. Chổ về đến, tức là cội nguồn.
 3. Lòng tưởng mong, suy nghĩ; mong cầu v.v...
 4. Một thái dương-hệ gọi là 1 tiểu thế giới,
 

 1.000 tiểu thế-giới là 1 tiểu thiên thế-giới,

 1.000 tiểu thiên là 1 trung-thiên,

 1.000 trung-thiên là đại-thiên thế-giới.

 Vậy đại-thiên thế-giới là ba lần nhân ngàn ( 1 T-G x 1000 x 1000 x 1000), nên gọi tam-thiên đại-thiên thế-giới, gồm có 1.000.000.000 thế-giới, là số thế-giới của cõi Ta-bà thuộc quyền giáo hóa của đức Thích-Ca.
 5. LƯỠNG: Phước đứctrí huệ 2 món. TÚC là đầy đủ.
 6. Thành trì do thần thông biến hóa ra, để dụ huyền giáo hóa của Phật.
 7. Có 3 hạng do tuần: 1) 40 dậm Tàu, 2) 60 dậm, 3) 80 dậm.
 8. Đem thân mạng về nương, nghĩa là chữ "Nam-mô" tiếng Phạm.
 9. Cõi dục trên người có 6 cõi trời:
 
 1.- Trời Tứ-Thiên-Vương;

 2.- Trời Đao-Lợi ( vua là Đế-Thích hay Thích-Đề-Hoàn-Nhơn)

 3.- Trời Dạ-Ma;

 4.- Trời Đâu-Xuất;

 5.- Trời Hóa-Lạc;

 6.- Trời Tha-Hóa-Tự-Tại, trên cõi dục có cõi Sắc, cõi Sắc có bốn thiền (sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền, tứ-thiền), 18 cõi Trời.

 Trong Sơ-thiền có 3 cõi:

 1.- Trời Phạm-chúng

 2.- Phạm-Vương. Phạm-Thiên-Vương là vua Trời Sơ-thiền.

 3.- Đại-Phạm Thiên-Vương là vua Trời Tứ-thiền.
 10. Có phước lành lớn nên cảm báo có cung điện tuỳ thân nhỏ lớn như ý.
 11. Theo nghi biểu của Phật, ai thưa thỉnh việc chi nếu nín thinh là chịu.
 12. Ba lần TỨ-ĐẾ thành 12.

1.- Đây là khổ, đây là Tập, đây là Diệt, đây là Đạo.

2.- Khổ nên biết, Tập nên dứt, Diệt nên chứng, Đạo nên tu.
3.- Khổ biết rồi, Tập dứt rồi, Diệt chứng rồi, Đạo tu rồi.
(13) 1.- Thanh-văn Niết-bàn.

2.- Duyên-giác Niết-bàn.

(14) Một trăm triệu (1000.000.000) gọi là "cai".

(15) Thanh-văn-thừa, Duyên-giác-thừa.

 * Các danh từ: Vô-lượng, vô-biên, a-tăng-kỳ, vô-số, na-do-tha, hằng-hà-sa, bất-khả tư-nghì, bất-khả-xưng, bất-khả-thuyết, v.v... đều là những số lớn trên số muôn ức.


Sự tích ĐỌC KINH THOÁT KHỒ
( trích trong Pháp-uyển)

Đời Đường, ở Ung-Châu, huyện Trường-An có ông Cao-Pháp-Nhãn là cháu huyền tôn của ông Cao-Tần, quan bộc xạ đời Tuỳ. Đến niên hiệu Long-Sóc năm thứ ba, ngày 25 tháng giêng đến Trung-Đài dự thí, trưa cỡi ngựa về nhà. Nhà ông ở góc phía Nam phường Nghĩa-Ninh, phía Đông chùa Hóa-Độ. Giữa đường gặp bọn người cỡi ngựa rượt bắt, chạy về gần đến nhà té ngựa mê ngất rồi chết, mọi người tri hô, người nhà vội đến khiêng về đến sáng ngày mai mới sống lại. Ông Nhãn bảo người nhà rằng: "Ta bị quỷ bắt đến địa-ngục thấy vua Diêm-La ngồi trên toà cao, giận mắng ta rằng: Ngươi tại sao lại đến chùa Hóa-Độ trong phòng thầy Minh-Tạng ăn trái của thường-trụ Tăng? - Nói xong bắt ta nuốt 400 hòn sắt nóng, đương lúc nuốt thời cổ họng nghẹn rút thân thể đỏ khô co lại biến làm màu đỏ, nuốt hết mới sống lại".

Ngày 26 là ngày ông mới sống lại, lại có bọn quỷ hiện đến bắt dẫn về cho vua Diêm-Vương. Vua quở: "Tại sao ngươi không kính tin Tam-Bảo dám nói chuyện lỗi xấu của Tăng? Ngươi nuốt sắt xong sẽ bị cày lưỡi". Đến ngày 29 tháng đó sau khi nuốt sắt xong sống lại cho đến ngày 30 sáng sớm lại chết đến địa ngục chịu cày sắt cày lưỡi tự thấy lưỡi mình dài đến vài dậm, người ở bên xem thấy ông Nhãn le lưỡi ra hơn thước ( thước Tàu). Vua lại bảo ngục tốt: "Người này nói chuyện hay dở của Tam-Bảo đem búa lớn ra chặt bỏ lưỡi đó". Ngục tốt chặt mãi không đứt. Vua bảo lấy búa thẻo nhỏ bỏ vào vạc nước sôi nấu, nấu mãi không rã. Vua lấy làm lạ hỏi, ông Nhãn thưa: "Tôi từng đọc kinh Pháp-Hoa một lượt". Vua không tin tra sổ công đức, thấy trong án có ghi. "Đọc một bộ kinh Pháp-Hoa". Vua liền truyền thả cho về.

Ông Nhãn hiện còn, người đến thăm xem như đi chợ, người nghe thấy phát tâm tu hành rất đông. Cả nhà ông Nhãn từ đó rất mực kính tin Tam-Bảo, gắng chí tin tấn tu hành, hằng răn nhắc nhau không hề nhàm mỏi.

Tam-Bảo là con thuyền từ báu đưa chúng sanh ra khỏi biển sanh tử khổ. Kính thì phước vô lượng. Khinh... họa không nhỏ. Phật là đấng Chí-Tôn, Pháp làThánh dược, Tăng là biểu hiệu của Phật và Pháp. Oâng Nhãn khinh Tăng mà phải tội, lại nhờ đọc kinh Pháp-Hoa mà khỏi tai ương. Chỉ đọc có một bộ kinh Pháp-Hoa mà lưỡi không chặt đứt, nấu không rã, làm đến nỗi vua Diêm-Vương phải kinh sợ mà mau đưa về. Huống là người đọc tụng 2 bộ, 3 bộ đến trăm nghìn bộ ư. Nếu có người nào chí thành tụng niệm kinh Pháp-Hoa thời công đức vô lượng vô biên -Tội nghiệp đều tiêu -Phước lành đầy đủ. Sau khi xả báo thân hiện tại, quyết chắc sẽ cảm thành thân vàng Kim-cang ở vị lai vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11660)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11980)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11132)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11378)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12086)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12584)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10789)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18021)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11751)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9969)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10206)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12374)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15382)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11269)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14349)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12128)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15398)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12031)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12432)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11213)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12112)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10642)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12574)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13195)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14865)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12722)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16604)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19692)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13133)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12683)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12285)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11877)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10914)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13556)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11973)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11863)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11656)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12785)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14550)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12652)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15692)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13645)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12925)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9907)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18036)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11197)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9106)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12211)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13079)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10334)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12223)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15339)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16631)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12243)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11506)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14292)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19727)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14177)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24639)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10717)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant