Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 2: Những Đặc Điểm

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8413)
Chương 2: Những Đặc Điểm

KINH PHÁP HOA TINH YẾU
Bhikkhu Thích Thái Hòa

Chương II: 
Những Đặc Điểm

Kinh Pháp Hoa xuất hiện trong tam tạng giáo điển Phật giáo ngoài những điểm chung, kinh còn có những điểm độc đáo cho chính mình, nên khiến kinh không phải chỉ là Pháp mà còn là Diệu Pháp.

Những điểm độc đáo và đặc biệt của kinh Pháp Hoa như sau:

1. Phật:

Phật có đầy đủ cả ba thân.

*Phật pháp thân: Phật lấy Pháp làm thân. Pháp đây là bản thể tịch diệt của vạn hữu. Bản thể ấy là thực tướng của các Pháp khôngsinh diệt.

Bản thể ấy là Niết Bàn, là tâm chân thật tịch lặng suốt trong không sinh diệt.

*Phật báo thân: Thân Phật do tu tập các pháp vô lậu như Giới, Định, Tuệ và thực hành Lục độ của Bồ tát không còn khởi niệm ngã và pháp hay phi ngãphi pháp mà hình thành.

Thân ấy, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tạo thành sắc thân của Phật. Sắc thân ấy là sắc thân được tạo thành từ các pháp của tâm vô lậu, nên thọ mạng của Phật là vô lượng, không có bị hủy diệt bởi thời gian. Thân ấy luôn luôn hiện hữu, không nhập Niết bàn, bởi vì chính nó là Niết bàn, nên không cần phải nhập.

*Phật ứng thân: Là thân Phật ứng hiện theo bản hạnh để hoạt dụng hóa độ. Thân này do bản nguyện, nên Ngài mượn các pháp hữu vi mà tạo thành. Thân này có đến, có đi, có sanh, có diệt như tất cả thân của chúng sanh. Nhưng khác hẳn với thân chúng sanh, là thân chúng sanh do nghiệp lực tạo nên, còn Phật ứng thân do bản nguyệnthiết lập.

ứng hóa thân là như vậy, nên ứng hóa thân của Phật Thích Cathân thể lịch sử về con người, nên nó có hạn lượng về thời gian.

Pháp thân, báo thân, ứng hóa thân ấy đều là thân của Phật Thích Ca, nhưng trong đó độc đáo nhất là kinh Pháp Hoa cho rằng, báo thân của Ngài là bất khả hoại, tồn tạibất sinh diệt với mọi thời gian.

Điều này kinh Pháp Hoa đã chỉ cho ta thấy, báo thân của Phật do tâm vô lậu tạo thành.

Tâm ấy siêu việt mọi thời gian, nên thân ấy cũng tồn tại đúng như thời gian của tâm ấy.

Nên, báo thân của Phật Thích Ca được trình bày ở kinh Pháp Hoabáo thân siêu việt.

Đó là cách nhìn đặc biệt của Pháp Hoa về Phật thân.

Phẩm Như Lai Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa đã cho ta cách nhìn về báo thân này.[1][1]

Ứng hóa thân được trình bày trong kinh Pháp Hoa là thân của Đức Phật lịch sử, nhưng mục đích có mặt của thân ấy trong thế gian, không gì khác là để “khai thị ngộ nhập tri kiến” của Phật cho chúng sanh, khiến chúng sanh ngộ nhập đúng như cái thấy, cái biết của Phật.

Ứng thân ấy của Phật Thích Ca không phải chỉ có mặt ở đây mà có mặt khắp cả mọi nơi để thuyết giảng kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện[2][2] và phẩm Hiện Bảo Tháp[3][3] của kinh Pháp Hoa cho ta cách nhìn độc đáo và đặc biệt đối với tác dụng của Phật ứng hóa thân này.

Lại nữa, kinh Pháp Hoa chỉ cho chúng ta thấy, tuệ giác của Phật là tuệ giác chứng nhập thực tướng của các pháp qua mười phạm trù gồm “như thị tánh, như thị thể, như thị tướng, như thị tác, như thị lực, như thị nhân,…”.

Do chứng nhập thực tướng của các pháp qua mười phạm trù này, nên Ngài thành Bậc Vô Thượng Giác.

Do đó, báo thân của Ngài lúc nào và ở đâu cũng có, để chứng minh cho sự chứng ngộ tướng tịch diệt của các pháp, là không sinh diệt và ứng hóa thân của Ngài thì lúc nào và ở đâu cũng biểu hiện để giáo hóa chúng sanh, bằng vô số phương tiện thiện xảo, khiến tất cả đều thành tựu tuệ giác vô thượngtuệ giác chứng nhập “chư pháp thực tướng” ấy.

Bởi vậy, Phật qua cách nhìn của kinh Pháp Hoa hết sức đặc biệt và độc đáo so với các kinh khác, nên kinh Pháp Hoa đối với các kinh khác không phải chỉ là Pháp mà còn là Diệu Pháp. Và Bậc chứng ngộtuyên bố pháp ấy cho mọi giới, không phải chỉ là Toàn Giác mà còn là Diệu GiácVô thượng giác.

2.Pháp:

Pháp được kinh Pháp Hoa diễn đạt là Pháp Nhất Thừa.

Nhưng, pháp Nhất Thừa của Pháp Hoa không hề phủ nhận những giáo phápĐức Phật diễn đạt và hướng dẫn đã được ghi lại ở trong các kinh điển Agāma và Nikāya như vô thường, khổ, không, vô ngã hay vô thường, khổ và không hoặc là vô thường (sarvasamskāra-anitya = chư hành vô thường), vô ngã (sarvadharmānātman = chư pháp vô ngã), và Niết bàn (nirvānasāntam = Niết bàn tịch tịnh) đã được các kinh điển Agāma và Nikāya đóng dấu ấn, gọi là “tam pháp ấn” hay “tứ pháp ấn”, tức là những dấu ấn của chánh pháp, mà kinh Pháp Hoa chỉ đưa tất cả dấu ấn về với một dấu ấn duy nhất là “thực tướng ấn”.[4][4]

Thực tướng ấn là dấu ấn của tướng chân thật. Dấu ấn ấy, ấn rõ tuệ giác của Phật vào nơi thực tướng các pháp.

Dấu ấn ấy, ấn rõ các pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã chỉ có một, đó là “nhất thế pháp không”.[5][5]

Dấu ấn ấy, ấn rõ sự giác ngộ của Phật duy nhất là “thực tướng không” hay “tịch tịnh Niết bàn”.

Dấu ấn ấy, ấn rõ báo thân của Phật không bị sinh diệt và không bị thời gian chi phối. Và ứng hóa thân của Phật có mặt trong cuộc đời là chỉ cho chúng sanh thấy rõ thực tướng của các pháp, bằng tất cả phương tiện thiện xảoứng hóa thân đều có thể sử dụng.

Như vậy, dấu ấn ấy, là ấn chứng mục đích duy nhất của Phật ra đời là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến cho chúng sanh, khiến cho họ thấy biết mà ngộ nhập.

Lại nữa, ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo trong Đạo đế của Tứ Diệu Đếpháp hành căn bản để đoạn tận Tập đế, dứt sạch Khổ để, chứng nhập Diệt đế.

Diệt đếthực tướng tịch diệt của các pháp, là Niết Bàn tuyệt đối của chư Phật.

Nên, ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo là pháp phương tiện của Niết bàn mà không phải là Niết bàn. Và chỉ có Phật mới chứng nhập Diệt đế hoàn toàn trong Niết bàn tuyệt đối.

Bởi vậy, không có Niết bàn nào chân thật ngoài Niết bàn của Phật và không có trí tuệ nào là trí tuệ toàn giác ngoài trí tuệ của Phật.

Do đó, đối với cách nhìn của Pháp Hoa, thì hàng Thanh Văn chưa đạt tới sự chứng nghiệm Tứ Diệu Đế như sự chứng nghiệm của Phật, nên họ cần phải buông bỏ những gì mà họ cho rằng, họ đã chứng nghiệm Tứ Diệu Đế, để họ đạt tới sự chứng nghiệm Tứ Diệu Đế như Phật và thể chứng Niết bàn tuyệt đối như Ngài.

Đối với sự chứng nghiệm pháp mười hai duyên khởi của hàng Duyên Giác cũng vậy, họ phải buông bỏ cách nhìn pháp mười hai duyên khởi theo cách nhìn của họ, để tiến tới cách nhìn thấy pháp mười hai duyên khởi theo cách nhìn thấy của Phật, thì họ không những đoạn tận các chi phần ái, thủ, hữu hay vô minh, hành mà còn đoạn tận cứ địa chứa chấp và huấn luyện vô minh nữa.

Và chỉ có đạt tới Niết bàn tuyệt đối mới đoạn tận hết thảy các cứ địa cất chứa và huấn luyện vô minh ấy.

Nói tóm lại, hàng Duyên Giác phải buông bỏ cách nhìn thấy mười hai duyên khởi và đoạn tận các chi phần trong mười hai duyên khởi của mình để đi tới cách nhìn thấy và cách đoạn tận các chi phần trong pháp mười hai duyên khởi của Phật, để họ có cái nhìn thấy, cái biết của Phật và chứng nhập Niết bàn tuyệt đối như Ngài.

Và đối với sự phát bồ đề tâm thực hành Lục độ của Bồ tát cũng vậy. Họ phải buông bỏ hoàn toàn mọi ý tưởng về ngã và pháp, để đạt tới cái nhìn thấy tịch diệt hoàn toàn đối với chúng.

Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát phải buông bỏ cái thấy pháp của mình mà phải tiến tới cách nhìn thấy pháp của Phật, phải buông bỏ cách chứng nhập Niết bàn theo cách chứng nhập của mình mà tiến tới cách chứng nhập Niết bàn của Phật.

Như Kinh Pháp Hoa nói:

 “Chư Phật lưỡng túc tôn

Tri pháp thường vô tánh

Phật chủng tùng duyên khởi

Thị cố thuyết Nhất thừa

Thị pháp trụ, pháp vị

Thế gian tướng thường trú…”[6][6]

Nghĩa là:

 “Các Đấng Giác Ngộ đầy đủ trí và đức, biết rõ các pháp khôngtự tánh, hạt giống Phật sinh khởi do duyên, nên Phật nói Nhất thừa.

bản thể của các pháp vốn là thường trú và nguyên vị, tướng chân như của thế gian vốn thường trú”.

Như vậy, kinh Pháp Hoa đã chỉ cho ta thấy, các pháp khôngtự tánh, hạt giống Phật cũng sinh khởi do duyên và pháp chân như ở nơi vạn hữu không hề bị sinh diệt. Phật tính của hết thảy chúng sanh tuy ở trong sự luân chuyển của thế gian mà vẫn thường trú và Niết bàn có mặt thường trú ngay ở trong sinh tử.

Nên, tuy ứng hóa thân của Phật ở trong sinh tử với chúng sanh mà vẫn thường sống với pháp Niết bàn tịch tịnh.

Pháp như vậy là pháp Nhất thừa. Và Nhất thừa như vậy là pháp Nhất thừa độc đáo và đặc biệt của Pháp Hoa so với pháp Nhất thừa được quảng diễn từ kinh Thắng Man, Bát NhãHoa Nghiêm.

3.Tăng:

Ở trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói Tăng là đoàn thể đệ tử của Ngài: “nội bí Bồ tát hạnh, ngoại hiện thị Thanh văn, thiểu dục yếm sinh tử, thật tự tịnh Phật độ”.[7][7]

Nghĩa là bên trong của Tăng đoànnuôi dưỡng, giữ gìn hạnh của Bồ tát, nhưng bên ngoài biểu hiện hình thái của Thanh văn, ít có tham dục, nhàm chán sinh tử, mà thật ra tự thân là làm cho cõi Phật thanh tịnh.

Nên, kinh Pháp Hoa không công nhận một đoàn thể Thanh văn đơn thuầnđệ tử của Phật, nếu có chăng chỉ là giả lập để giúp họ trở thành Bồ tátgiáo hóa cho họ pháp Nhất thừa, nhằm đưa họ đến địa vị Phật.

Điều này, ta thấy Đức Phật nói rõ qua thi kệ của phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa như sau:

 “Quý vị chớ có nghi

Ta là vua các Pháp

Nói cho đại chúng biết

Chỉ dùng đạo Nhất thừa

Giáo hóa các Bồ tát

Không đệ tử Thanh Văn”.

(Nhữ đẳng vật hữu nghi

Ngã vi chư Pháp vương

Phổ cáo chư đại chúng

Đản dĩ Nhất thừa đạo

Giáo hóa chư Bồ tát

Vô Thanh văn đệ tử).[8][8]

Nên, ở kinh Pháp Hoa, Đức Phật khẳng định sự ra đời của Ngài có hai việc.

Đối với Pháp, thì Ngài chỉ dạy pháp Nhất thừa, tức là pháp làm Phật.

Và đối với Tăng Thanh văn, thì Ngài phải giáo dục để họ đều trở thành Bồ tát, và dạy cho họ pháp Nhất thừa, rồi tuyên bố họ sẽ thành Phật.

Điểm này, Đức Phật đã nói với Tôn giả Xá Lợi Phất như sau:

 “Xá Lợi Phất nên biết

Người căn chậm, trí nhỏ

chấp tướngkiêu mạn 

Pháp này không thể tin.

Ta nay vui, vô úy

ở trong các Bồ tát

thẳng thắn bỏ phương tiện

chỉ nói đạo Vô thượng.

Bồ tát nghe pháp ấy

lưới nghi đều trừ diệt

ngàn hai trăm La Hán

chắc chắn sẽ làm Phật.

Như chư Phật ba đời

theo nghi thức thuyết pháp

Ta nay cũng như vậy

thuyết pháp đều giống nhau”.[9][9]

Chính điểm này là điểm then chốt của kinh Pháp Hoa, và là cách nhìn đặc biệt và độc đáo về Tăng của Pháp Hoa.

Cũng chính điểm này mà các nhà Phật học Pháp Hoa, gọi là “phế quyền hiển thực”. Nghĩa là bỏ quyền tríhiển thị thật trí; bỏ quyền pháp mà hiển thị thật pháp; bỏ phương tiệnhiển thị cứu cánh.

Và cũng chính điểm này, Tôn giả Xá Lợi Phất, Bậc thượng căn, thượng trí của hàng Thanh văn đã lãnh hộitin tưởng, nên đã phát biểu với Đức Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con từ xưa đến nay, suốt ngày và đêm luôn luôn tự trách.

Nhưng, ngày nay từ Đức Thế Tôn, con được pháp chưa từng có, nên nay mọi nghi ngờ của con đoạn sạch, thân và tâm của con thư thái, tự nhiên và ổn định một cách thích thú.

Ngày nay con mới biết rằng, con là con đích thực của Phật, sinh ra từ sự giáo huấn của Ngài, sinh ra từ pháp chuyển hóa của Ngài, thừa hưởng được gia tài chính pháp của Phật”.[10][10]

Ngay sau đó, Tôn giả Xá Lợi Phất đã được Đức Phật thọ ký thành Phật.

Và ở phẩm Tín Giải,[11][11] các vị Thanh văn như các Tôn giả Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp, Mục Kiền Liên cũng đã trình bày sự lãnh hội pháp Nhất thừa của mình lên Đức Phật.

Để chứng minh cho sự lãnh hộitin tưởng ấy, các Tôn giả đã kể cho Thế Tôn nghe câu chuyện trưởng giảcùng tử, để minh họa cho tâm từ bi của Phật, hạnh nguyện giáo hóa của Phật và trí tuệ phương tiện thiện xảo của Ngài đối với việc giáo hóa hàng Thanh văn. Và hàng Thanh văn cho dù những vị thông minh, những vị tu tập giỏi đã hoàn thành tuệ giác vô học của Thanh văn, hay chưa hoàn thành tuệ giác ấy, rồi Đức Phật cũng thương, tìm đủ mọi cách dìu dắt phát triển thành tâm Bồ tát, giáo hóa cho pháp Nhất thừa và rồi sẽ thọ ký thành Phật.

Nên, sau đó Đức Phật đã thọ ký cho các Tôn giả này đều thành Phật trong tương lai.

Và không những các đại Tỷ khưu Tăng Thanh văn được thọ ký thành Phật, mà các Tỷ khưu đã hoàn thành tuệ giác vô lậu của Thanh văn và chưa hoàn thành tuệ giác ấy, cũng đều được Đức Phật thọ ký thành Phật.[12][12]

Chúng Thanh văn thuộc Tỷ khưu ni, như bà Đại Ái Đạo (Ma Ha Bà Xà Bà Đề), bà Pháp Dự (Da Du Đà La) cũng đều được Đức Phật thọ ký thành Phật.[13][13]

 Như vậy, hàng Thanh văn Tăng là đối tượng đặc biệt và là đối tượng chủ yếu mà kinh Pháp Hoa nhắm tới để chuyển hóa, khiến tất cả hai bộ đại Tăng của Thanh văn đều trở thành Bồ tát Tăng, tu học pháp Nhất thừa và đều sẽ thành Phật trong tương lai.

Do đó, đây là điểm độc đáo và đặc biệt về cách nhìn nhận Tăng của Pháp Hoa.

Và đối với các Tỷ khưu tăng có hạnh nguyện sống độc cư để quán chiếu sâu vào pháp mười hai duyên khởi, thấy lưu chuyển của mười hai duyên khởiKhổ đếTập đế và thấy rõ sự hoàn diệt của mười hai duyên khởiDiệt đếĐạo đế mà đoạn tận ái, thủ, hữu, đoạn tận vô minh, hành, hưởng thụ đời sống tịch lạc độc cư trong hiện thế, đối với những vị Thanh vănchủng tính Duyên giác như thế, Đức Phật cũng sử dụng phương tiện thiện xảo để giúp họ tiến lên Bồ tát thừa trở thành Bồ tát Tăng, rồi dạy cho họ pháp Nhất thừa và sẽ thọ ký cho họ thành Phật.

Như vậy, bằng mọi phương tiện, Đức Phật đã chuyển vận giáo đoàn Tăng có nội dung Thanh vănDuyên giác trở thành giáo đoàn có nội dung của Bồ tát Tăng, và từ giáo đoàn Bồ tát Tăng này, Đức Phật dạy cho pháp Nhất thừathọ ký cho tất cả thành Phật.

Ở điểm độc đáo và đặc biệt này, các nhà Phật học Pháp Hoa, gọi là “hội tam quy nhất”. Nghĩa là chuyển hóa và thống nhất cả ba thừa gồm Thanh văn, Duyên giácBồ tát thừa thành một thừa duy nhất, gọi là Nhất thừa hay Phật thừa.

Nên, Tăng qua cách nhìn của kinh Pháp Hoagiáo đoàn có nội dung của Bồ tát.

Do đó, giáo đoàn ấy, có khả năng làm chỗ nương tựa cho tất cả mọi giới trong thế gian, có khả năng giữ gìn chánh pháp, khiến cho hạt giống Phật pháp không bị chìm mất.

giáo đoàn Tăng như vậy, không những có khả năng gìn giữ mà còn có khả năng tuyên dương Diệu pháp đến mọi giới không những thế gian, mà còn cả các giới xuất thế gian nữa.

4.Tin và hiểu:

Tuệ giác Pháp Hoatuệ giác thấy và biết rõ hết thảy chúng sanh đều có Phật tính và đều có khả năng thành Phật nếu có điều kiện tác độngyểm trợ.

Nên, đức tin Pháp Hoađức tin sinh khởi từ tuệ giác ấy và của tuệ giác ấy.

Do đó, Pháp Hoa tin rằng, hết thảy chúng sanh đều có Phật tính và đều có khả năng thành Phật.

Với tuệ giácđức tin ấy, nên Pháp Hoa tin rằng A La Hán đồng có Phật tính như Phật và sẽ thành Phậtvấn đề dễ hiểu.[14][14]

Đức tin Pháp Hoa không dừng lại ngang đó mà còn đi tới rộng lớn và sâu sắc hơn. Pháp Hoa còn tin rằng, Phật tính không có đối lập và không còn nằm trong hạn hữu của giới tính hay chủng loại.

Nên, ngay cả con người tạo tội ngũ nghịch như Đề Bà Đạt Đa, không những được Đức Phật thọ ký thành Phật, mà còn xem Đề Bà Đạt Đaân nhânthiện hữu tri thức của mình trong một thời.

Tuy, Đề Bà Đạt Đa tạo tội ngũ nghịch bị thọ báo địa ngục, nhưng Phật tính trong Đề Bà Đạt Đa không mất.

Phật tính ấy, cần có sự tác động của nhân duyên và sự yểm trợ của chánh pháp để chúng sinh khởi, đó là cách nhìn và cách thấy hết sức độc đáo và đặc biệt của kinh Pháp Hoa. Và lại càng độc đáo và đặc biệt hơn nữa là đức tin Pháp Hoa tin vào điều ấy là một sự thật. Kinh Pháp Hoa còn nói:

“Nếu có người nào đối với việc này mà không nghi ngờ thì không bị đọa vào ác đạo, thường sinh trước chư Phật mười phương và sinh ở đâu cũng được nghe kinh Pháp Hoa. Sinh trong nhân loại hay chư Thiên thì được hưởng sự yên vui tuyệt diệu và nếu sinh ra trước Phật thì hóa sanh từ hoa sen”.[15][15]

Đức tin ấy, là đức tin độc đáo của Pháp Hoa, nhưng nó chưa dừng lại ở đó mà còn tin rằng, Phật tính không bị hạn hữu bởi giới tính hay chủng loại, nên tất cả mọi loài cũng đều có khả năng thành Phật, ngay cả loài súc sanh nữ.

Việc tin tưởng hành động hiến dâng châu ngọc và tức thì biến thành nam tướng, đầy đủ phong cách Bồ tát, hướng ngay qua thế giới Vô Cấu ở phương Nam và thành Phật của Long nữ mới tám tuổi, con của vua rồng Diêm Hải, là đức tin độc đáo và bất khả tư nghì của Pháp Hoa.

Lại nữa, Pháp Hoa tin rằng, tất cả chúng sanh ai cũng có Phật tính và ai cũng có khả năng thành Phật. Chính vì vậy mà ai cũng có khả năng thọ trì, đọc tụng, diễn giảng và hoằng truyền kinh Pháp Hoa đến với tất cả mọi người và mọi loài.

Ở Diêm Hải, Bồ tát Văn Thù chỉ hoằng truyền kinh Pháp HoaLong nữ mới tám tuổi đã lãnh hội kinh ấy một cách sâu xa.[16][16]

Pháp Hoa tin rằng, báo thân của Phật không có hủy diệt và có mặt bất cứ nơi nào có thọ trì, đọc tụng, diễn giảng kinh Pháp Hoaứng hóa thân của Phật hiện hữu khắp nơi để hoằng truyền kinh ấy. Phẩm Hiện Bảo Tháp của kinh Pháp Hoa[17][17] có báo thân của Phật Đa Bảo là sự chứng minh độc đáo cho đức tin này. Và khi mở cửa bảo tháp của Phật Đa Bảo, thì tất cả ứng hóa thân của Phật Thích Ca đang đi hoằng truyền Pháp Hoa khắp mọi nơi cùng lúc có mặt, lại là một độc đáo khác, nói lên sự linh hoạt, sống động, cùng khắp mà thống nhất của đức tin Pháp Hoa.

Lại nữa, Pháp Hoa tin rằng, Đức Phật lịch sử chỉ là ứng hóa thân, chứ không phải Ngài mới thành Phật trong thời đại này, mà Ngài đã thành Phật cực kỳ lâu xa, như ví dụ “tam thiên trần điểm kiếp”, đã được diễn đạt ở trong phẩm Như Lai Thọ Lượng.[18][18]

Lại nữa, Pháp Hoa tin rằng, ngoài thế giới hệ của Phật Thích Ca đang giáo hóa, còn có vô số thế giới hệ khác, khắp cả mười phương thế giới nào cũng có Phật và Bồ tát, đang giáo hóa cho thế giới hệ ấy bằng kinh Pháp Hoa.

Như vậy, nếu ta nhìn kinh Pháp Hoa về mặt đức tin, thì đức tin của Pháp Hoa cực kỳ độc đáo, thực tế, sâu sắc, rộng lớn, cao vời, linh hoạt và đa dạng, nên ta nói về đức tin ấy không bao giờ hết.

Và độc đáo hơn nữa, đức tin Pháp Hoa không phải được nuôi dưỡng và lớn mạnh từ ngôn thuyếttrí thức Pháp Hoa, mà nó phải được nuôi lớn và bảo chứng từ tuệ giác Pháp Hoa từ bản hạnhđời sống ấy.

Và nó phải được gia trì bởi thần lực của Như Lai, các vị Đại Bồ tát, các thần chú và các bậc thiện tri thức,[19][19] thì nó mới có thể tin hiểu sâu xa đối với kinh Pháp Hoa và mới có khả năng hoằng truyền Pháp Hoa mà không bị trở ngại.

Tại sao đức tin Pháp Hoa và người hoằng truyền kinh này, phải có sức gia trì của chư Phật và Đại Bồ tát?

Vì như ở phẩm Như Lai Thần Lực, Đức Phật đã nói với Bồ tát Thượng Hạnh rằng: “Như Lai có vô biên thần lực và đem vô biên thần lực ấy mà diễn đạt tính chất của kinh Pháp Hoa, thì cho dù trải qua vô số kiếp, cũng không thể diễn tả hết được.

Vì sao? Vì tất cả thần lực tự tại của Như Lai; tất cả kho tàng bí yếu của Như Lai và tất cả những gì cực kỳ sâu xa của Như Lai, tất cả đều có mặt ở trong kinh Pháp Hoa…, nên kinh đó có mặt ở đâu, quý vị hãy xem đó như Bồ Đề Đạo Tràng, nơi mà Như Lai đã từng giác ngộ, hãy xem đó như là Lộc Uyển, nơi mà Như Lai đã chuyển vận Pháp luân và xem đó như là rừng Sa La, nơi Như Lai thể hiện Niết bàn”.[20][20]

Kinh Pháp HoaDiệu Pháp, nên không thể dùng tri thức mà hiểu, không thể sử dụng đức tin đơn thuần mà tin, mà phải hiểu và tin bằng tuệ giác, được sự gia trì của chư Phật và các Đại Bồ tát.

Tin và hiểu như vậy là tin và hiểu bằng tâm linh siêu việt mà không phải tin và hiểu theo thường tục.

Ấy cũng là một trong những tin và hiểu độc đáo của Pháp Hoa

5. Con đường huấn luyện và chuyển hóa:

Tất cả những vị đang tu học ở trong Tam ThừaThanh Văn Thừa, Duyên Giác ThừaBồ Tát Thừa đều là đối tượng huấn luyện và giáo hóa của Pháp Hoa. Đối với những vị đã là Bồ Tát, thì Pháp Hoa huấn luyện và giáo hóa cho họ nhanh chóng trở thành một vị Phật.

Đối với đối tượng Thanh VănDuyên Giác, Pháp Hoa phải huấn luyện và giáo hóa lâu dài, bằng những phương pháp thực dụng và xảo diệu, để đưa họ lên Bồ Tát Thừathọ ký cho họ thành Phật trong tương lai.

Nên mục đích giáo dục của Pháp Hoagiáo dục và huấn luyện các Thánh giả trong Tam Thừa thấy rõ tướng trạng “như thật” của các pháp để thành Phật, giáo hóa chúng sanh bằng tuệ giác và bằng từ bi Pháp Hoa.

Phương pháp giáo dục của Pháp Hoathiết lập giáo lý Tứ Diệu Đế để huấn luyện cho những vị có chủng tính Thanh Văn, giáo lý Mười Hai Duyên Khởi để huấn luyện cho những vị vừa có chủng tính Thanh Văn, vừa có chủng tính Duyên Giác, và thiết lập giáo lý Lục Độ để huấn luyện cho những vị có chủng tính Bồ Tát.

Bởi vậy, giáo học Pháp Hoa đầy đủ cả Tam Thừa, nhưng trong đó đối tượng chính để huấn luyện và giáo dục lâu dài của Pháp HoaThanh Văn.

Phương tiện giáo dục cho hàng Thanh Văn là giáo học Tứ Diệu Đế, nhưng khi quý vị Thanh Văn đã thuần thục với giáo lý này, thì Pháp Hoa nâng cấp họ lên và giáo hóa khiến cho họ trở thành Bồ Tát.

Nhưng, ở trong Thanh Văntrình độ cần phải giáo hóa khác nhau:

*Trình độ thượng căn, thượng trí, như Tôn giả Xá Lợi Phất, thì ở kinh Pháp Hoa, Đức Phật chỉ thẳng “chư pháp thực tướng” và nói quả vị A La Hán, là do Đức Phật vận dụng, chứ không phải có thật, Phật quả mới là thật.

Phương pháp huấn luyện này, là phương pháp nói thẳng, đánh thức trực tiếp vào tuệ giác của Thanh Văn, khiến cho tuệ giác ấy nhận ra ngay Phật tínhbản nguyện Bồ Tát vốn có của hàng Bồ Tátthọ ký thành Phật trong tương lai.

Huấn luyện bằng phương pháp này, ở kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã thành công đối với Tôn giả Xá Lợi Phất.

*Trình độ trung căn, trung trí như các Tôn giả Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Đại Ca DiếpMục Kiền Liên, ở kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã giáo dục bằng cách đưa ra những ví dụ: ba cõi ví như nhà lửa, xe dê, xe hươu và xe trâu ở ngoài cửa của ba cõi là dụ cho Tam Thừa, tu tập giáo lý Tam Thừa ra khỏi nhà lửa của tam giới, nhưng chưa phải thành tựu Niết Bàn của Phật,…[21][21]

Qua ví dụ nhà lửa và ba xe mà Đức Phật đã trình bày, khiến cho các Tôn giả nhận ra được giáo lý Nhất Thừa, thấy rằng mình vốn có Phật tính và đã từng có bản nguyện Bồ Tát và chính những vị này đã đưa ra ví dụ Trưởng giảcùng tử, để ví dụ Trưởng giả là Phật và cùng tử là chính mình ở phẩm Tín Giải; nghĩa là tu tập mà quên mất bản nguyện Bồ Tát là liền trở thành Thanh Văn và là cùng tử. Chỉ cần nhớ lại bản nguyện Đại Thừa là tức khắc trở thành Bồ Tát.

Tiếp theo, Đức Phật dạy cho họ về ví dụ Dược Thảo,[22][22] để chỉ cho họ thấy căn cơ trình độ chúng sanh có cao, có vừa, có thấp, nhưng pháp Nhất Thừapháp bình đẳng, hết thảy mọi căn cơ tùy theo sức mình mà lãnh hộicuối cùng cũng đều thành tựu địa vị Phật.

Như vậy, phương pháp giáo dục thứ hai đối với hàng Thanh Văn của Đức Phậtkinh Pháp Hoa bằng thí dụ, và qua thí dụ mà đối tượng giáo dục nhận ra được bản nguyện Bồ Tát vốn có của mình.

Và đối với các vị Thanh Văn với trình độ dưới trung bình, Đức Phật nói về nhân duyên Thầy trò đã từng cùng nhau tu tập Pháp Hoa, từ thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, quốc độ của Ngài tên là Hảo Thành, thời kỳ của Ngài xuất hiệnĐại Tướngthời kỳ ấy trải qua đến nay là cực kỳ lâu xa.

Đức Thích Ca đã từng là vị Sa di Bồ Tát tu học Pháp Hoa với Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, đã lãnh hội Pháp Hoa, đã tu tập Pháp Hoa và đã diễn giảng Pháp Hoa từ thời ấy, và Ngài đã thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, giáo hóa vô số chúng sanh, đã từng thiết lập giáo pháp Tam Thừa để giáo hóa hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, nhưng cuối cùng đều khiến cho họ hiểu và chứng nhập giáo pháp Nhất Thừa.

Và những vị đã từng học hỏi, tu tập giáo pháp Tam Thừa với Ngài đã trải qua nhiều thời gian, hiện vẫn đang còn có mặt ở trong chính hội Pháp Hoa này và hiện nay, họ đang được Như Lai trực tiếp giảng dạy Pháp Hoa cho nữa.

Niết Bàn của Thanh VănDuyên Giác là do Như Lai tạm thiết lập để cho những vị tu tập Thanh Văn hạnh nghỉ ngơi, sau những tháng ngày dài, băng qua con đường hiểm nghèo của sinh tử.

Bây giờ quý vị đã khỏe, lấy lại sức lực, để tiếp tục lên đường đến nơi “bảo sở”, tức là Niết Bàn của Phật.

Và để minh họa cho ý này, Đức Phật đã đưa ra ví dụ “hóa thành”, là thành phố tạm nghỉ ngơi để tiếp tục đi tới “bảo sở”, là kinh đô.

Hóa thành là dụ cho Niết Bàn của Thanh Văn, Duyên Giác và kinh đô là dụ Niết Bàn của Phật.[23][23] 

Ở phẩm Thọ Ký, Đức Phật thọ ký cho năm trăm đệ tử Thanh Văn, mà đứng đầuPhú Lâu Na, Đức Phật đã nói về bản nguyện Bồ Tát của Tôn giả Phú Lâu Na là đã có và đã thực hành ở nơi chín mươi ức Đức Phật quá khứ.

 Tôn giả Phú Lâu Na không phải chỉ có khả năng thuyết pháp và tuyên dương chánh pháp của Như Lai thôi đâu, Tôn giả từng là người số một duy trìtuyên dương chánh pháp của chín mươi ức chư Phật quá khứ. Tôn giả đã có đủ thần lực của Bồ Tát, sống lâu bao nhiêu thì thực hành phạm hạnh bấy nhiêu.

Tôn giả đã từng giáo hóa vô lượng, vô số chúng sanh, khiến họ an trú vững chãi trong Tuệ giác vô thượng.

Và bất cứ thời kỳ của Phật nào quá khứ, hiện tại hay tương lai, Ngài đều là người thuyết pháp số một cả…[24][24]

Đức Phật thọ ký cho Phú Lâu Na thành Phật, rồi Tôn giả Kiều Trần Như và các vị khác cũng hiểu được vấn đề Đức Phật giáo hóa, nên họ đều được Đức Phật thọ ký thành Phật.

Và họ đã đưa ra ví dụ “ngọc trong chéo áo” để minh họa rằng, Phật tính vốn có, bản nguyện tu học Bồ Tát Thừa, họ cũng đã từng phát khởithực hành, mà nay lại quên mất. Vì quên mất Phật tínhbản nguyện Bồ Tát của mình, nên bị nghèo nàn trí tuệphước đức, cũng giống như người có viên ngọc trong chéo áo mà quên mất, nên phải lang thang khổ nhọc vì cơm áo và được đôi chút cơm áo tự cho là đủ.

Bằng sự huấn luyện và giáo dục Pháp Hoa như vậy, Đức Phật đã thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất ở phẩm 3, cho bốn vị Đại đệ tử ở phẩm 6, cho năm trăm Đại A La Hán và 1200 vị A La Hán ở phẩm 8, và Ngài lại tiếp tục thọ ký thành Phật cho các bậc hữu học vô học phẩm 9, thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa thành Phậtchứng minh cho sự thành Phật của Long nữ tám tuổi ở phẩm 12, và lại thọ ký cho chúng Tỷ khưu ni như bà Ma Ha Bà Xà Bà Đề, Da Du Đà La, … ở phẩm 13.

Như vậy, Pháp Hoa đã huấn luyện và giáo hóa hai Đại bộ Tăng - Ni Thanh Văn trở thành giáo đoàn Bồ Tát Tăng, bằng những phương pháp đánh thức hoặc trực tiếp, gián tiếp, khiến cho tất cả quý vị tự nhận ra Phật tính và tự nhận ra bản nguyện Bồ Tát vốn có của mình, nên đã được Đức Phật thọ ký thành Phật.

Như vậy, sự huấn luyện và giáo dục của Pháp Hoa là sự huấn luyện và giáo dục bằng phương pháp “đánh thức và khai phóng”. Nghĩa là đánh thức vào khả năng hay bản nguyện vốn có của họ, khiến cho họ tỉnh dậybước tới.

Huấn luyện và giáo dục như vậy thật là cực kỳ độc đáo và đặc biệt của Pháp Hoa.

Ở phẩm Tùng Địa Dõng Xuất, đã cho ta thấy sự giáo dục và huấn luyện của Pháp Hoa không mang tính cách đối phó có vẻ thời cuộc mà mang một tầm chiến lược lâu dài đến bất khả thuyết, để gánh váctruyền bá Pháp Hoa đến bất tận.

Đó cũng là một trong những tầm nhìn độc đáo và đặc biệt về giáo dục của Pháp Hoa.

Và với sự giáo dục ấy, Pháp Hoa đã thành công khi chuyển hóa toàn bộ giáo đoàn Thanh Văn Tăng thành giáo đoàn Bồ Tát Tăng.

Và lại càng chứng tỏ thành công hơn nữa, khi ở phẩm Tùng Địa Dõng Xuất, Đức Phật đã từ chối sự phát tâm giữ gìntruyền bá ở nơi cõi này của hơn tám hằng hà sa số Bồ Tát Đại sĩ đến từ các thế giới khác.

Ngài nói: “Ở quốc độ này, Như Lai đã giáo dục và huấn luyện có đến sáu vạn hằng hà sa Bồ Tát Đại sĩ, và mỗi vị Đại sĩ lại có sáu vạn hằng hà sa tùy thuộc.

Thầy trò của các Bồ Tát Đại sĩ này, sau khi Như Lai diệt độ họ có thể đủ mọi khả năng để duy trì và phát triển Pháp Hoa, xin khỏi phiền đến quý vị”.

Với tầm nhìn và sự huấn luyện sứ giả Pháp Hoa như vậy, là cực kỳ đặc biệt và độc đáo mà không có bất cứ một sự huấn luyện và giáo dục nào có thể so sánh.

6. Hạnh nguyện:

Hạnh nguyện Pháp Hoa được bắt đầu khai triển và ứng dụng là từ phẩm Pháp Sư.

Hạnh nguyện Pháp Hoahạnh nguyện biến Pháp Hoa trở thành đời sống qua sự thọ trì, đọc tụng, diễn giảng, khiến cho mình chứng nhập thực tướng của vạn hữu và khiến cho tất cả mọi người cũng đều chứng nhập thực tướng ấy, bằng con đường Bồ Tát, với đầy đủ sáu hạnh, bao gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ.

Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ với tâm từ bi là đời sống Pháp Hoa đã bắt đầu sinh khởi và lớn mạnh bằng tuệ giác.

Trí tuệ Ba la mật là điểm đến của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấnthiền định, nhưng đồng thời nó cũng cùng đồng hành với các hạnh ấy, khiến cho các hạnh ấy không bị chệch hướng của Phật đạo.

Ở phẩm Pháp Sư, Đức Phật nói với Bồ Tát Dược Vương, muốn có đời sống Pháp Hoa, thì căn bản là phải có hạt giống Pháp Hoa, và dù hạt giống Pháp Hoa được gieo vào trong tâm thức chỉ là một bài kệ hay chỉ là một câu kinh, mà biết tiếp nhận bài kệ hay một câu của Pháp Hoa với tâm hoan hỷ, chỉ chừng ấy căn bản, cũng đủ để thực hiện đời sống Pháp Hoa, và cũng đủ điều kiện để đức Phật thọ ký cho tương lai làm Phật.

Nên, không có đức tin Pháp Hoa, thì không bao giờ khởi lên hạnh nguyện Pháp Hoa, và hạnh nguyện Pháp Hoa không có, thì không bao giờ có đời sống Pháp Hoa.

Bồ Tát khác với Thanh Văn là do có hạnh và nguyện. Nguyện thành Phật để có đời sống Toàn giác và nguyện hóa độ chúng sanh bằng sự thực hành Lục Độ với tâm từ bi.

Phẩm Pháp Sư cho ta thấy, đời sống Pháp Hoa là phải có sức mạnh của đức tin Pháp Hoa, phải có sức mạnh của chí nguyện và phải có sức mạnh của thiện căn, thì mới có thể đi vào ngôi nhà của Như Lai là tâm đại từ bi, mới có thể mặc áo của Như Lai là tâm nhu hòa nhẫn nhục và mới có thể ngồi tòa Như Lai là hết thảy pháp Không, nghĩa là ngồi ở nơi bản thể Ngã KhôngPháp Không của hết thảy mọi sự hiện hữu.

Phải có tâm đại từ bi, phải có tâm nhu hòa nhẫn nhục, phải có tuệ giác về Không, mới có thể giảng dạy truyền bá Pháp Hoa đến cho mọi người.

Việc tháp của Phật Đa Bảo xuất hiện trong kinh Pháp Hoa là để khuyến khích sự phát khởi hạnh nguyện sống bằng đời sống Pháp HoaPháp Hoa phải được nói ra và truyền bá từ đời sống ấy.

Nên, việc tháp Phật Đa Bảobáo thân của Ngài xuất hiện trong kinh Pháp Hoachứng minh cho hạnh nguyện Pháp Hoa và khuyến khích ai đã có bản nguyện Pháp Hoa thì hãy sống theo hạnh nguyện ấy.

Đề Bà Đạt Đa vô lượng kiếp về trước đã có hạnh nguyện Pháp Hoa, nên cần quay về sống với bản nguyện ấy, thì hiện tại tức khắc các tội báo do ngũ nghịch gây ra đều rơi rụng và sẽ được thọ ký thành Phật. Và Long nữ tuy mới tám tuổi, dù là đang thọ báo thân súc sinh nữ, nhưng hạnh nguyện Pháp Hoa không quên mất, lại được Ngài Văn Thù nhắc nhở, giáo hóa, khuyến khích, thực hành thuần thục và khi hạnh nguyện Pháp Hoa đã thuần thục, thì việc thành Phật là không còn chướng ngại bởi bất cứ cái gì và có thể xảy ra trong khoảnh khắc.

Phẩm Khuyến Trì, cho ta thấy rằng, 500 vị A La Hán đã hoàn thành tuệ giác Thanh Văn và 8000 vị khác đang tiếp tục để hoàn thành tuệ giác Thanh Văn, khi nghe nói đến hạnh nguyện Pháp Hoa, quý vị ấy cũng đã phát nguyện với Đức Thế Tôn sống bằng đời sống hoằng truyền Pháp Hoa như sau:

“Bạch đức Thế Tôn! Chúng con cũng ở nơi quốc độ khác, sẽ thuyết giảng kinh Pháp Hoa này một cách rộng rãi.

Vì sao? Vì ở trong cõi nước Ta bà, con người tệ ác, tăng thượng mạn nhiều, phước đức mỏng manh, lắm sân si, tâm không chân thật, khúc mắc, dua nịnh, dơ bẩn”.[25][25]

Sự phát nguyện này nói lên hạt giống Pháp Hoa thực sự đã có mặt ở trong quý vị, và quý vị đã phát khởi hạnh nguyện hoằng truyền Pháp Hoa một cách khiêm tốn.

Và sáu ngàn Tỷ khưu ni, đứng đầu là bà Ma Ha Bà Xà Bà Đề, sau khi đã được Phật thọ ký, họ cũng đã phát khởi hạnh nguyện Pháp Hoa như sau:

“Kính bạch Đấng Đạo Sư Thế Tôn, vị làm an ổn trời, người!

Chúng con đã được Ngài thọ ký xong, trong tâm hoàn toàn an lạc.

Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng có khả năng hoằng truyền kinh Pháp Hoa ở cõi nước khác”.[26][26]

Sau khi các vị Thanh Văn mới chuyển hướng tiến lên Bồ Tát Thừa đã phát khởi hạnh nguyện hoằng truyền kinh Pháp Hoa là những vị Bồ Tát, đã từng tu học và có một số thành quả nhất định đối với Bồ Tát Thừa như: Nắm vững các pháp tổng trì, có khả năng giữ gìn các thiện pháp không bị để rơi mất, họ cũng đã phát khởi hạnh nguyện đối với Pháp Hoa như sau:

“Bạch Thế Tôn! Nếu Ngài dạy chúng con, kính hộ và giảng dạy kinh Pháp Hoa này, thì chúng con sẽ làm đúng như lời Ngài dạy, bằng cách tuyên dương pháp ấy một cách rộng rãi”.

Và tất cả những vị đã phát khởi hạnh nguyện sống đời sống Pháp Hoa, và cũng vì do thương đời mà hoằng truyền kinh Pháp Hoa; vì thương đời mà nhẫn nhục để tuyên dương Pháp Hoa và vì thương đời mà không tiếc thân mạng để tuyên dương kinh ấy.

Vì vậy, đối với Bồ Tát, Pháp Hoa không còn là hạnh nguyện mà chính là đời sống.

Đối với đời sống ấy, Bồ Tát luôn luôn sống với tâm nhu hòa, nhẫn nhục, hiền từ, không sợ hãi, khéo tùy thuậnthông minh.

Đời sống ấy, không bị cuốn hút bởi hình tướng của các pháp và cũng không bị chi phối bởi những nhận thức về pháp, mà luôn luôn nhìn sâu vào thực tướng của các pháp, để thấy rõ tính chất như thật của nó.

Với đời sống ấy, Bồ Tát không gần gũi các nhà nắm quyền lực chính trị, không thân gần những người tà pháp, những người nuôi sống bằng tà mạng, những người có tà kiến, tu tập vị kỷ,… thích sống đời của thiền định, nhiếp phục tâm ý, quán chiếu tự tính Không của các pháp và thấy rõ tính như thật của chúng.

Với đời sống ấy, Bồ Tát sống với khẩu hành thanh tịnh, với ý hành thanh tịnh và với nguyện hành thanh tịnh.

*Nguyện làm phát khởi tâm đại bi nơi hàng xuất giatại gia.

*Nguyện làm phát khởi tâm đại bi nơi những người không phải là Bồ Tát, với những quán chiếu như sau:

Những người mà không phát khởi được tâm nguyện đại bi là những người mất mát rất lớn.

Như Lai phương tiện tùy nghi thuyết pháp mà họ không nghe, không biết, không hiểu, không hỏi, không tin, không biết rõ.

Tuy rằng, những người ấy, không hỏi, không tin, không hiểu rõ đối với kinh Pháp Hoa, nhưng ta đắc trí tuệ Toàn giác, thì những vị ấy tùy theovị trí nào, ta nguyện sử dụng sức mạnh thần thông, sức mạnh trí tuệ để dìu dắt, khiến cho họ đều an trú ở trong Pháp Hoa.[27][27]

Pháp hành thứ tư ở trong phẩm An Lạc của kinh Pháp Hoa rất là quan trọng vì là hạnh nguyện thuộc về đại nguyện có nội dung từ Bồ đề tâm.

Phát khởi hạnh nguyện thương và cứu vớt chúng sanh ra khỏi sinh tử, đi đến Niết Bàn tuyệt đối của Phật mà thọ trì, đọc tụng, diễn giảng, hoằng truyền kinh Pháp Hoahạnh nguyện đích thực của Bồ Tát.

Các vị Bồ Tát như Văn Thù, Di Lặc, Trí Tích, Dược Vương, các vị Bồ Tát Tòng Địa Dõng Xuất, Bồ Tát Thường Bất Khinh,… là tiêu biểu cho những vị Bồ Tát đã và đang thực hành đại nguyện Pháp Hoa.

Và với đại nguyện ấy, Bồ Tát Thường Bất Khinh đã thành tựu Tuệ Giác Vô Thượng, nay chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã là Bồ Tát Thường Bất Khinh, đã từng bị chúng Bồ Tát 500 vị do Hiền Thủ đứng đầu, chúng Tỷ khưu ni 500 vị do Sư Tử Nguyệt đứng đầu, chứng Ưu bà di 500 vị do Thiện Tư đứng đầu, nhưng những vị ấy đã được Bồ Tát Thường Bất Khinh giáo dục và nay đều là không thối chuyển đối với Tuệ Giác Vô Thượng, và hiện họ đang có mặt ở trong chúng Pháp Hoa này.

Như vậy, đối với Pháp Hoa cực ác như Đề Bà Đạt Đa cũng được thọ ký thành Phật, bị quả báo làm thân súc sanh như Long nữ cũng làm Phật, vậy thì 5000 người Thanh Văn tăng thượng mạn, họ rời bỏ đại hội Pháp Hoa, họ tu học như thế nào sau khi giáo đoàn Thanh Văn đã được Đức Phật giáo hóa pháp Nhất Thừa, thọ ký cho tất cả từ hàng Bậc thượng trí như Ngài Xá Lợi Phất cho đến những vị chưa hoàn tất pháp học Thanh Văn đều là trở thành giáo đoàn Bồ Tát Tăng.

Điều này ở trong phẩm An Lạc Hạnh, Đức Phật đã nói rõ:

“Những người mà không phát khởi được tâm nguyện đại bi là những người mất mát rất lớn.

Như Lai phương tiện tùy nghi thuyết pháp mà họ không nghe, không biết, không hiểu, không hỏi, không tin, không biết rõ.

Tuy rằng, những người ấy không hỏi, không tin, không hiểu rõ đối với kinh Pháp Hoa, nhưng Ta đắc trí tuệ Toàn giác, thì những vị ấy tùy theovị trí nào, Ta nguyện sử dụng sức mạnh thần thông, sức mạnh trí tuệ để dìu dắt, khiến cho họ đều an trú ở trong Pháp Hoa”.

Đại nguyện Pháp Hoa là vậy, nên 5000 người tăng thượng mạn kia, khi Đức Phật sắp sửa nói Pháp Hoa họ tự bỏ ra về, Đức Phật không hề ngăn cản, mà lại nói họ ra về cũng tốt, vì trong đại chúng không còn hạt xép.

Tuy nói vậy, nhưng đối với 5000 người ấy, Ngài lại càng có trách nhiệm giáo hóa Pháp Hoa cho họ thành Phật, như Ngài đã dạy đại nguyện Pháp Hoa ở trong phẩm An Lạc Hạnh và như Ngài đã từng làm trong quá khứ qua hạnh và nguyện của Bồ Tát Thường Bất Khinh đối với 500 vị Bồ Tát, 500 vị Tỷ khưu ni và 500 vị Ưu bà di.

Còn các vị Bồ Tát Diệu Âm, Quán Thế Âm, Phổ Hiền xuất hiện ở trong kinh Pháp Hoatiêu biểu cho những Bồ Tát đã chứng nhập đời sống Pháp Hoayểm trợ hạnh nguyện Pháp Hoa cùng khắp mọi thời giankhông gian. Các thiện tri thức như Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, Tịnh Đức phu nhân ở phẩm Diệu Trang Nghiêm là để yểm trợ cho hạnh nguyện Pháp Hoa và ngay các thần chú có mặt trong kinh Pháp Hoa cũng chỉ vì yểm trợ hạnh nguyện Pháp Hoa, khiến cho tất cả những ai thực hành hạnh nguyện Pháp Hoa đều thành tựu pháp Nhất Thừa.

7. Hiệu quả:

Tin và thực hành Pháp Hoa, đưa tới cho hành giả những hiệu quả tốt đẹp cực kỳ đặc biệt.

Như phẩm Phân Biệt Công Đức[28][28] nói: Chỉ cần nghe và tin Như Lai nói về đời sống vô tận của Ngài, mà đã có rất nhiều người đắc Vô sinh pháp nhẫn. Đắc Vô sinh pháp nhẫn là thể nhận được lý tính Không sinh khởi nơi vạn hữu.

Lại có vô số Đại Bồ Tát chứng đắc pháp môn “văn triền đà la ni”.

Pháp môn Văn triền đà la nipháp môn có khả năng nghe, hiểu, duy trì và nắm giữ những gì tốt đẹp của mọi thứ ngôn ngữ, khi đi qua thính giác của vị thành tựu pháp môn này, và vị ấy có thể chia sẻ được những điều mình đã nghe, đã tin và hiểu ấy cho mọi người.

Lại có vô số Đại Bồ Tát chứng đắc pháp môn đắc “nhạo thuyết vô ngại biện tài”.

Đắc nhạo thuyết vô ngại biện tài là người đạt tới khả năng trình bày chánh pháp không bị trở ngại đối với mọi thành phần nghe. Và mọi thành phần nghe ấy, ai nghe cũng hiểu và ưa thích.

Lại có vô số Đại Bồ Tát đắc “bách thiên vạn ức vô lượng triền đà la ni”.

Những vị chứng đắc đà la ni này, là những vị có khả năng xoay chuyển vào sự tương quan của mọi pháp mà mình đã được nghe, nhớ một cách sâu rộngbình đẳng. Lại có khả năng phá trừ phiền não, chuyển hóa sự phân biệt, làm cho hiểu biết được hằng sa Phật pháp.

Lại có vô số Đại Bồ Tát chuyển thanh tịnh pháp luân. Nghĩa là có khả năng chuyển vận bánh xe chánh pháp thanh tịnh.

Lại có vô số Đại Bồ Tát chỉ còn tám đời, bốn đời, hai đời hay một đời nữa là sẽ thành tựu địa vị giác ngộ hoàn toàn.

Tóm lại, thành quả do tin, hiểu và thực hành Pháp Hoa qua thọ trì, đọc tụng, diễn giảng tuyên thuyết rộng rãi đến mọi giới là không thể nghĩ bàn, không thể so sánh.

Ở phẩm Tùy Hỷ Công Đức,[29][29] Đức Phật dạy: Ai nghe Pháp Hoa mà tùy hỷ, người ấy sẽ thành tựu phước báo tốt đẹp về sự đi lại. Và khi nghe kinh Pháp Hoa biết chia sẻ chỗ ngồi cho người khác cùng nghe, thì sẽ có phước báo lớn ở trong thế gian như sẽ ngồi vào vị trí của Luân Vương, Đế Thích hay Phạm Vương. Và nếu biết thông báo rộng rãi cho mọi người được nghe kinh Pháp Hoa, thì vị ấy có phước báo làm người ở chung với các vị Bồ Tát, và các căn của vị ấy hoàn chỉnh tốt đẹp, đầy đủ các phẩm chất cao quý của phước báo làm người.

Ở phẩm Pháp Sư Công Đức,[30][30] Đức Phật nói: Nếu có ai hành trì Pháp Hoa qua các hạnh như thọ trì, đọc tụng, diễn giảng, ghi chép thì người ấy sẽ thành tựu 800 công đức về mắt, 1200 công đức thuộc về tai, 800 công đức thuộc về mũi, 1200 công đức thuộc về lưỡi, 800 công đức thuộc về thân, 1200 công đức thuộc về ý.

Như vậy, công đức thanh tịnh của sáu căn là do pháp hạnh của Pháp Hoa dẫn sinh và thành tựu.

Ở phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự,[31][31] Đức Phật nói: Nếu có người nào nghe kinh Pháp Hoa, hoặc tự mình chép, hoặc bảo người khác chép, thì công đức của người ấy, chỉ có trí tuệ của Như Lai mới biết được là nhiều, ít hay vô hạn.

Và nếu ai chép kinh này rồi, đem các loại hoa hương cúng dường thì công đức vô lượng.

Cũng phẩm này, Đức Phật nói:

Nếu có người nào nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này lại thọ trì, người ấy sau khi kết thúc thân nữ, không còn thọ thân nữ trở lại.

Và nếu sau khi Như Lai diệt độ, trong năm trăm năm sau, có người nữ nào nghe kinh Pháp Hoa, tu hành đúng như kinh dạy, đến lúc sinh mạng kết thúc, liền sanh về thế giới cực lạc của Phật A Di Đà, sinh ra trong hoa sen, an trú trên bảo tòa, được chúng Đại Bồ Tát vây quanh.

Bồ Tát Dược Vươngtiêu biểu cho vị Bồ Tát thực hành khổ hạnh của Pháp Hoa và là vị Bồ Tát đã đốt thân cúng dường, để chứng minh cho sự thành tựu hạnh ấy.

Bởi vậy, Đức Phật dạy: Nếu có ai nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sựtùy hỷtán dương, người ấy trong đời hiện tại miệng thường phát ra hương thơm hoa sen xanh, lỗ chân lông toàn thân thường toát ra hương thơm chiên đàn ngưu đầu. Và công đức của người ấy như đã nói ở trên.

Tuy, Bồ Tát Dược Vương đã thực hành Pháp Hoa qua khổ hạnh, không những bản thân Ngài đạt thành quả Pháp Hoa, mà những người nghe công hạnhthành quả ấy, mà tùy hỷtán dương, thì thành quả cũng không thể nghĩ bàn.

Nhưng, cũng có khi pháp hạnh của Pháp Hoa cực kỳ đơn giảnthành quả thực không thể nghĩ bàn, như ở phẩm Phương Tiện nói:

 “Hoặc có người lễ bái;

Hoặc chỉ là chắp tay

cho đến chỉ một tay;

Hoặc chỉ là cúi đầu

dùng tất cả cách ấy

để cúng dường tượng Phật

cứ như vậy từ từ

sẽ gặp vô lượng Phật.

Tự thành đạo Vô thượng

độ vô số chúng sanh

nhập vô dư Niết Bàn

như củi hết lửa tắt.

Hoặc người tâm tán loạn

vào trong chốn chùa tháp

chỉ xưng nam mô Phật

đều đã thành Phật đạo”.[32][32]

Như vậy, hiệu quả từ hạnh nguyện Pháp Hoa đem lại cho hành giả phước báo rất nhiều khía cạnh, ngay cả những khía cạnh vãng sanh về Tịnh độ của Phật A Di Đà, hay sanh lên cõi trời Đao Lợi hoặc Đâu Suất, nhưng hiệu quả thành Phật chính là hiệu quảPháp Hoa muốn trình bày.

8. Ngôn ngữ:

Ngôn ngữ Đức Phật sử dụng để diễn tả “thực tướng” qua kinh Pháp Hoa gồm có hai loại:

a. Ngôn ngữ siêu việt: Tức là ngôn ngữ của thiền định Vô lượng nghĩa xứ - ánh sáng phóng quang từ chặng giữa lông mày.

b. Ngôn ngữ quy ước: Có chín loại, gồm:

*Tu đa la (sūtra): Hán gọi là khế kinh, tức là Đức Phật sử dụng ngôn ngữ theo thể loại văn xuôi làm phương tiện để diễn tả “thực tướng”.

*Già đà (gāthā): Hán gọi là phúng tụng, tức là Đức Phật sử dụng ngôn ngữ theo thể văn chỉnh cú, bằng kệ tụng có tính độc lập làm phương tiện để diễn đạt “thực tướng”.

*Bổn sự (itivirttaka): Tức là Đức Phật sử dụng ngôn ngữ theo thể loại tường thuật, hồi ký làm phương tiện để diễn đạt “thực tướng”.

*Bổn sinh (Jataka): Tức là Đức Phật sử dụng ngôn ngữ theo loại kể chuyện làm phương tiện để diễn tả “thực tướng”.

*Vị tằng hữu (adbhuta): Tức là Đức Phật sử dụng ngôn ngữ theo thể loại đặc biệt, hiếm có, làm phương tiện để diễn tả “thực tướng”.

*Nhân duyên (nidāna): Tức là Đức Phật sử dụng ngôn ngữ theo thể loại trình bày, diễn đạt về nguyên cớ, về lý do làm phương tiện để diễn tả “thực tướng”.

*Thí dụ (aupamya): Đức Phật đã sử dụng thể loại ngôn ngữ thí dụ làm phương tiện để diễn tả “thực tướng”.

*Kỳ dạ (geya): Hán dịch là ứng tụng, tức là Đức Phật đã sử dụng thể loại ngôn ngữ kệ tụng thích ứng làm phương tiện để diễn tả “thực tướng”.

*Ưu ba đề xá (upade’sa): Hán dịch là luận nghị, tức là Đức Phật sử dụng thể loại ngôn ngữ của luận lý làm phương tiện để diễn tả “thực tướng”.[33][33]

Ngoài chín thể loại ở trên, còn có ba thể loại nữa, gồm:

*Thọ ký hay gọi là ký biệt: Tiếng Phạn là Vyakarana. Loại văn dùng để thọ ký cho đệ tử thành Phật trong tương lai.

*Tự thuyết (udàna): Không ai hỏi, nhưng thấy đúng thời và đúng căn cơ Đức Phật tự nói.

*Phương quảng (vaipulya): Thể loại ngôn ngữ được sử dụng để diễn tả những đạo lýtính cách uyên áo, vi mật.

Ba loại sau này không những không có trong bản Hán dịch của Ngài La Thập, cũng như bản của Xà Na Quật Đa mà cũng không thấy có trong bản Phạn văn hiện có.

Chín hay mười hai thể loại ngôn ngữ, mà Đức Phật dùng để diễn tả thực tại, là ngôn ngữtính cách quy ước của loài người, nên chúng chỉ là phương tiện mà không phải là cứu cánh.

Bởi vậy, dùng ngôn ngữ ấy để diễn tả thực tại, hay diễn tả cái thấy, cái biết của Phật thì thực tại, hay cái thấy, cái biết của Phật chẳng bao giờ có mặt một cách đích thực ở trong các thể loại ngôn ngữ diễn đạt ấy.

Ngôn ngữ để diễn tả thực tại toàn diện, thực tại giác ngộ của Phật, không phải là ngôn ngữ ý niệm, mà chính là ngôn ngữ của thiền địnhtuệ giác.

Ngay ở phẩm Tựa của kinh Pháp Hoa, đã chỉ ra cho ta thấy ngay, ngôn ngữ diễn tả toàn diện, hay thực tại giác ngộ của Phật là ngôn ngữ không ngôn ngữ.

Ngôn ngữ không ngôn ngữngôn ngữ diễn tả thực tại, hay ngôn ngữ của Pháp Hoa.

Ngôn ngữ ấy là ngôn ngữ của ánh sáng thiền định. Nó được phóng ra từ thiền định Vô lượng nghĩa xứ, ở giữa chặng mày của Phật, nhằm diễn tả thực tại không bị giới hạn bởi không gianthời gian. Nó không bị sinh diệt cũng như những nhận thức của con người chi phối.

Ngôn ngữ diễn tả thực tại chứng nghiệm bởi Pháp Hoa qua ánh sáng của thiền định ấy của Đức Phật, chỉ có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trực cảm.

Và như vậy, Đức Phật Thích Ca ngay nơi Linh Sơn, Ngài đã thuyết kinh Pháp Hoa cho đại chúng bằng ngôn ngữ ấy một cách đầy đủ và toàn vẹn.

Nhưng, trong đại chúng chỉ có Bồ Tát Văn Thù nghe được ngôn ngữ ấy, và khi Bồ Tát Di Lặc hỏi Bồ Tát Văn Thù về hiện tượng phóng quang của Đức Phật trong lúc nhập định ấy và Ngài Văn Thù đã nói về những gì cho Bồ Tát Di Lặcđại chúng nghe về ánh sáng của thiền địnhĐức Phật đã phóng ra, thì cũng kể từ đó, ngôn ngữ siêu việt của thiền định Pháp Hoa chuyển dịch qua ngôn ngữ quy ước của con người, làm phương tiện giúp con người trực cảm thực tại.

Ngôn ngữphương tiện của Pháp Hoa giúp con người trực cảm thực tại, nó không còn đơn thuầnâm thanh, là chữ viết mà ngay nơi mọi biểu tượng, và dù biểu tượng ấy là đưa lên một cành hoa, hay nở một nụ cười, hoặc chắp tay, cúi đầu hay chỉ là đưa ngón tay vẽ hình tượng Phật trên cát,…

Tất cả những loại ngôn ngữ như vậy đều là ngôn ngữ của Pháp Hoa, sử dụng để diễn tả hay hiển thị thực tại, khiến cho những ai đương cơ đều có thể chứng nhập thực tướng tịch diệt của vạn hữu một cách toàn diện.

Ấy là ngôn ngữ đặc biệt và độc đáo của Pháp Hoa.

9. Thí dụ:

Một trong những đặc điểm độc đáo và hấp dẫn của Pháp hoa là dùng ví dụ để diễn tả thực tại, khiến cho người nghe lãnh hộichứng nhập một cách dễ dàng.

Ví dụ ba cõi là nhà lửa và ngoài nhà lửa có ba xe, và khi thoát khỏi nhà lửa của ba cõi rồi thì chỉ cho một chiếc xe quý nhất, giá trị cao nhất, đây là ví dụ hết sức sống động và độc đáo của Pháp Hoa.

Chính ví dụ này, làm cho đối tượng đương cơ của Thanh Văn trực cảm được mục đích ra đời và giáo hóa của Phật chỉ là giáo pháp Nhất Thừagiáo pháp ở trong Tam Thừaphương tiện.

Lại ví dụ Trưởng giảcùng tử ở phẩm Tín Giải cũng hết sức sâu xa và độc đáo.

Sâu xa và độc đáo là vì vốn sinh trưởng trong dòng dõi giàu có, quý tộc, nhưng do ham chơi lâu ngày quên mất gốc rễ, nên trở thành kẻ khốn khổ, đi làm thuê mướn bần cùng. Nhờ người cha thông minh, nên đã biết sử dụng mọi phương tiện để gần gũi và vỗ về con, sau đó đưa con trở về và trao cho hết cả gia tài và dạy dỗ cho cách sử dụng.

Cũng vậy, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát vốn sinh ra từ Phật Thừa, nhưng ham vui theo niềm vui nhỏ nhoi có được của Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát mà quên mất Phật Thừa. Vì vậy mà họ chỉ có những niềm vui rất hạn hữu, hẹp hòi, không có được niềm vui lớn lao như Phật.

Do đó, Phật rất thương, tìm đủ mọi phương tiện để gần gũi, dìu dắt, tạo điều kiện quay trở về với Phật Thừa.

Sâu xa là vậy, mà độc đáo là vì chính quý vị theo Thanh Văn, khi nghe Phật nói thí dụ “nhà lửa và ba xe” ở phẩm Thí Dụ, thì họ nhận ra giáo lý Nhất Thừa mới là cứu cánh của Phật muốn chia sẻ cho đệ tử, mà họ đã tự ví mình là cùng tử và vị trưởng giả giàu có biết sử dụng mọi phương tiện để đưa con trở về giao hết gia tài, là chỉ cho Đức Phật.

Sâu xa và độc đáo hơn nữa, hễ bất cứ ai, bất cứ hạng loại và trình độ tu học cỡ nào, mà quên mất Phật tính, thì đều trở thành kẻ lạc đườnglạc hậu cả.

Lại ví dụ “hóa thành” và “bảo sở”, ở phẩm Hóa Thành Dụ là nói lên khả năng phương tiện thiện xảo của Phật, của Bậc Đạo Sư với sự dìu dắt và nhiếp hóa chúng sanh.

Lại thí dụ “dược thảo”, ở phẩm Dược Thảo Dụ, lại dụ cho tâm từ bi bình đẳng giáo hóa của Phật, và Phật tính vốn bình đẳng ở nơi tất cả mọi người.

Thí dụ “hạt ngọc trong chéo áo” ở trong phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký, là dụ cho sự tu tập mà quên mất Bồ đề tâm, quên mất đại nguyện, thì bần cùng khốn khổ. Nhớ lại Bồ đề tâmđại nguyện đã từng phát khởi thì không còn nghèo nàn.

Cũng vậy, người tu tập Bồ Tát Đạo, thì phải có đức tinhạnh nguyện của Bồ Tát để đào sâu vào Phật tri kiến. Và vị Pháp sư Pháp Hoa là vị tinh cần đào xới để có Phật tri kiếnchắc chắn là có, vì đã đến gần.

Thí dụ “kế châu” - hạt minh châu trong bối tóc của vua, ở phẩm An Lạc Hạnh, là dụ cho Nhất Thừa nằm trong Tam Thừa; thật pháp nằm trong quyền pháp, thật trí có mặt ở trong quyền trícứu cánh có mặt ngay ở trong phương tiện. Phật là Đấng Pháp Vương hiển thị Phật tính, thật trí hay thật pháp cho những vị phát khởi đại nguyện hành trì và hoằng truyền Pháp Hoa.

thí dụ “lương y” - là vị y sĩ giỏi, ở trong phẩm Như Lai Thọ Lượng, thí dụ này nói rằng, vị lương y vì muốn trị bệnh cho các con mà phải mượn cớ đi sang nước khác, để các con tự nghĩ côi cút, không nơi nương nhờ mà tâm sinh tỉnh ngộ.

Cũng vậy, Phật không có Niết Bàn, báo thân của Ngài đã thành Phật từ vô lượng kiếp vẫn còn đó, nhưng Ngài phương tiện nói nhập Niết Bàn là để trị bệnh lười biếng tu học của hàng đệ tử và để dạy cho chúng sanh thấy rằng, Phật khó gặp để họ phát tâm ngưỡng mộ mà tu tập.

Do đó, những ví dụ của kinh Pháp Hoa thật sâu thẳm và độc đáo; đặc biệtsống động.

10. Giới định và tuệ:

*Căn bản của Giới học Pháp Hoaphát khởi Bồ đề đại nguyện. Nên Bồ Tát khác với Thanh VănBồ đề đại nguyện. Nếu không phát khởi đại nguyện, thì dù có tu tịnh hạnh đến mấy cũng không phải là Bồ Tát.

Và nếu đã phát khởi Bồ đề đại nguyện mà quên mất, thì không còn là Bồ Tát.

Tu tập mà không phát khởi đại nguyện Bồ đề, thì tu mấy cũng không thành Phật, tu mấy đi nữa cũng là hạn hẹp. Và tu tập mà quên mất đại nguyện Bồ đề, thì cũng giống như kẻ “quên mất hạt châu trong chéo áo”, nên trở thành kẻ nghèo nàn, chỉ làm thuê mướn để kiếm đôi chút lợi nhuận vui sống qua ngày.

Phẩm Pháp Sư của kinh Pháp Hoathiết lập căn bản đại nguyện Bồ đề.

Phẩm Hiện Bảo Thápchứng minh cho sự thiết lập căn bản đại nguyện ấy.

Phẩm Đề Bà Đạt Đa là nhớ lại đại nguyện Bồ đề và khuyến khích phát khởi đại nguyện.

Phẩm Khuyến Trì là khuyến khích phát khởi đại nguyệnduy trì đại nguyện Bồ đề ấy.

Phẩm An Lạc Hạnhthực hiện đời sống của đại nguyện Bồ đềđời sống Pháp Hoa.

Phẩm Tòng Địa Dõng Xuất và phẩm Như Lai Thọ Lượng là nói rõ đời sống rộng lớn, siêu việt thời giankhông gian của đại nguyện Bồ đề.

Phẩm Phân Biệt Công Đức, phẩm Tùy Hỷ Công Đức, phẩm Pháp Sư Công Đức, phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh là nói rõ đức tinthành quả của đại nguyện Bồ đề.

Phẩm Chúc Lụy là ký thác đại nguyện Bồ đề, khiến đại nguyện ấy còn mãi.

Phẩm Như Lai Thần Lựcyểm trợ triệt để cho đại nguyện Bồ đề.

Và các phẩm còn lại là các Đại Bồ Tát tiếp tục thực hành đại nguyện Bồ đềyểm trợ đại nguyện ấy.

Như vậy, ta thấy Giới học Pháp Hoaphát khởi đại nguyện Bồ đềthường xuyên thực hành đại nguyện ấy cho đến thành tựu Vô thượng bồ đề.

Thành tựu Vô thượng bồ đề đại nguyệnthành tựu Thanh tịnh pháp thân, thành tựu Viên mãn báo thânthành tựu Thiên bách ức hóa thân.

Do đó, thành tựu đại nguyện Bồ đề hay thành tựu Giới học Pháp Hoathành tựu Pháp thân thanh tịnh của Phật. Pháp thân ấy có mặt cùng khắp pháp giới.

Thành tựu Giới học Pháp Hoathành tựu Báo thân thường trú và viên mãn vô lượng phước đứctrí tuệ của Phật. Thân ấy không bị sinh diệt chi phối. Thân ấy hiện hữu vô lượng thời gian.

thành tựu Giới học Pháp Hoathành tựu Thiên bách ức hóa thân của Phật. Thân ấy ngay nơi Báo thân của Phật, cùng một lúc mà biến thể cùng khắp để hoằng truyền Pháp Hoa đến mọi phương sở, mọi chủng loại đúng như đại nguyện Bồ đề.

Do đó, Giới học Pháp Hoa làm cho Giới học Thanh Văn, Giới học Duyên Giác, Giới học Bồ Tát đều trở thành Giới học viên mãn đại nguyện Bồ đề.

Nên, Giới học Pháp Hoa cực kỳ độc đáo, đặc biệt, rộng lớn và sâu xa.

*Định học Pháp Hoa thiết lập trên nền tảng của đại nguyện Bồ đềtừ bi mà phẩm chất của người tu học và hoằng truyền kinh Pháp Hoa cần phải có.

Và từ thiết lập ấy mà Định họcTuệ học Pháp Hoa dẫn sinh.

Ở phẩm Pháp Sư, Đức Phật nói với Bồ Tát Dược Vương rằng: “Người nào muốn giảng kinh Pháp Hoa, sau khi Như Lai diệt độ, người ấy phải vào nhà Như Lai, phải mặc áo của Như Lai và phải ngồi tòa của Như Lai.

Nhà của Như Lai chính là tâm đại bi đối với hết thảy chúng sanh. Áo của Như Lai là đức tính nhu hòa nhẫn nhục và tòa của Như Lai là nguyên lý Không của hết thảy pháp”.[34][34]

Như vậy, tâm đại biGiới học Pháp Hoa. Đức tính nhu hòa nhẫn nhụcĐịnh học Pháp Hoa và nguyên lý Không của hết thảy pháp là Tuệ học Pháp Hoa.

Pháp Hoa đã thiết lập Giới học từ tâm đại bi. Và từ tâm đại bithiết lập Định họctừ Định học ấy mà thiết lập Tuệ học Pháp Hoa.

Phẩm An Lạc Hạnh, Đức Phật nói với Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Định học Pháp Hoa cần có hai mặt là ‘thân cận xứ’ và ‘thân cận quán’:

-Thân cận xứ: Vị thực tập Định học Pháp Hoa thường ưa ngồi thiền, ưa sống ở nơi nhàn tịnh và thường ưa nhiếp phục tâm ý.

-Thân cận quán: Vị ấy thường quán nguyên lý Không của hết thảy pháp, quán chiếu tướng như thực của các pháp.

“Tướng ấy, không điên đảo, không chuyển động, không thối lui, không tiếp diễn, không sở hữu, không ngôn ngữ diễn đạt, không khởi sinh, không xuất hiện, không trỗi dậy, không tên gọi, không tướng trạng, không số lượng, không biên giới, không đối ngại, không ngăn cách.

Chúng chỉ do nhân duyên mà có và từ nhận thức sai lầm mà phát sinh”.[35][35]

Và thân cận quán này, Đức Phật đã nói với Bồ Tát Vô Tận Ý trong phẩm Phổ Môn qua bài kệ như sau:

 “Chân quán, thanh tịnh quán

Quảng đại trí tuệ quán,

Bi quán cập từ quán

Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng”.[36][36]

Nghĩa là:

“Quán chiếu đúng sự thật

Quán chiếu thật thanh tịnh

Quán chiếu trí tuệ lớn

Quán chiếu bằng đại bi

Quán chiếu bằng đại từ

Thường ước nguyện tu tập

Thường chiêm nghiệm, ngưỡng mộ”.

-Quán chiếu đúng sự thật là nhìn sâu vào mọi đối tượng để thấy rõ tự tính Chân như nơi mọi đối tượng ấy.

-Quán chiếu thật thanh tịnhsự quán chiếu trong suốt, không bị mọi ý tưởng về ngã chấp làm ngăn ngại.

-Quán chiếu trí tuệ lớn là sự quán chiếu không bị các ý tưởng về pháp chấp làm trở ngại.

-Quán chiếu bằng đại bisự quán chiếu cứu độ chúng sanh bằng bản nguyện đại bi rộng lớn, toàn diện và cùng khắp.

-Quán chiếu bằng đại từsự quán chiếu thương yêu chúng sanh bằng bản nguyện đại từ rộng lớn, toàn diện và cùng khắp.

Trong năm pháp thiền quán này, ba pháp quán đầu là Định học Pháp Hoa và hai pháp quán sau là Giới học Pháp Hoa.

Và như vậy, Giới học Pháp HoaĐịnh học Pháp Hoa không thể tách rời nhau mà chúng luôn luôn có mặt trong nhau để hỗ trợ nhau, khiến từ đó mà Định học Pháp Hoa phát triển rộng lớn, cùng khắp, toàn diệnviên mãn.

thiền định Pháp Hoa chính là “vô lượng nghĩa xứ tam muội = Anantanirde’sa pratisthāna samādhi”.

Xứ, tiếng Phạn là pratisthāna, nó là điểm hay lãnh vực của tâm an trú.

Điểm ấy, chính là “thực tướng” của vạn hữu.

Vô lượng nghĩa, tiếng Phạn là Anantanirde’sa. Nội dung của vô lượng nghĩa là mười như thị.

Như vậy, Định Pháp Hoa là Định Vô lượng nghĩa. Nhập định này là tâm luôn luôn an trú ở trong thực tướng của vạn hữu và đồng nhất với thực tướng ấy. Nghĩa là tâm luôn luôn an trú và đồng nhất với Mười như thị.

Nên, thiền định Pháp Hoathiền định của Phật. Thiền định ấy, cực kỳ sâu thẳm, toàn diện và cùng khắp.

Do đó, không có bất cứ loại thiền định nào có thể so sánh.

*Tuệ học Pháp Hoa được thiết lập trên nền tảng của Định học Pháp Hoa. Nghĩa là từ nơi sự quán chiếu nguyên lý Không của tất cả các pháp mà dẫn sinh tuệ học toàn diện.

Toàn diện đối với tâm, toàn diện đối với trí và toàn diện đối với phương tiện lực.

Đối với tâm, Tuệ học Pháp Hoa quét sạch mọi phiền não do chấp ngã và pháp, không những đưa tâm trở về với tự tánh thanh tịnh, mà còn làm cho tâm sinh khởi đại bi, phát khởi đại nguyện để cứu độ hết thảy chúng sanh.

Như ở phẩm Pháp Sư, Đức Phật nói với Bồ Tát Dược Vương rằng:

“Này Dược Vương! Nên biết người ấy, sau khi Như Lai diệt độ, tự họ buông bỏ quả báo thanh tịnh là do vì lòng thương xót chúng sanh, mà sinh ra trong thời đại xấu ác, để diễn giảng kinh Pháp Hoa này một cách rộng rãi”.[37][37]

Đối với trí, Tuệ học Pháp Hoa chính là Thật trí. Thật trí ấy, là trí thấy rõ sự thật toàn diện ở nơi mỗi pháp. Nghĩa là, Tuệ giác thấy rõ Mười như thị ngay ở nơi mỗi một pháp.

Nên, ở phẩm Phương Tiện, Đức Phật nói với Tôn giả Xá Lợi Phất như sau: “Pháp được Như Lai thành tựu hiếm có bậc nhất, rất khó hiểu, chỉ có Như Lai cùng với các Như Lai mới có năng lực xét thấu đến chỗ tột cùng thật tướng của các pháp”.

Thật tướng của các pháp ấy là: Tướng như vậy, Tánh như vậy, Thể như vậy, Lực như vậy, Tác như vậy, Nhân như vậy, Duyên như vậy, Quả như vậy, Báo như vậy, hết thảy gốc rễ và ngọn ngành tuyệt đối bình đẳng như vậy”.[38][38]

Và từ Tuệ giác hoàn toàn này mà sinh khởi Phương tiện trí, để thiết lập Tam Thừa, giáo hóa, dìu dắt hết thảy mọi căn cơ, nhằm đưa họ đến với Nhất Thừa Phật đạo.

Điều này, Đức Phật nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng: “Này Xá Lợi Phất! Ta từ khi thành Phật cho đến ngày nay, đã dùng các loại nhân duyên, các loại thí dụ, trình bày giáo pháp rộng rãi bằng ngôn ngữ, sử dụng vô số phương tiện để dẫn đạo chúng sanh, khiến họ xa lìa mọi vướng mắc.

Vì sao làm được như vậy? Vì Như Lai đều có đầy đủ sự thấy biết và phương tiện toàn vẹn…”[39][39]

Như vậy, Tuệ học Pháp HoaTuệ học thấy rõ thực tướng toàn diện của mỗi pháp bằng Mười như thị. Và từ sự thấy biết ấy, mà thiết lập giáo pháp Tam Thừa, để hoạt dụng và đưa các Thánh tăng Tam Thừa hội nhập Nhất Thừa.

Nên, Tuệ học Pháp Hoa cực kỳ thâm viễnđặc biệt.

Nói tóm lại, Giới - Định - Tuệ Pháp Hoa là Giới - Định - Tuệ của bản nguyện Đại biĐại trí, nên chính nó là phương tiện để độ đời, nhưng cũng chính nó là cứu cánh, là đích điểm đồng quy của mọi phương tiện, nghĩa là ngay nơi phương tiệnhiển thị cứu cánh.

11. Nguyên ủy của Pháp Hoa:

Nguyên ủy kinh Pháp Hoa, theo Ngài Văn Thù Sư Lợi nói ở phẩm Tựa là có từ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cách đây trải qua vô số thời kỳ.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đã từng nghe Pháp Hoa từ Đức Phật ấy và đã từng giảng dạy, hướng dẫn tu học Pháp Hoa cho 800 đồ chúng, mà trong đó có Bồ Tát Di Lặc hiện nay.

Ở phẩm Hóa Thành Dụ, Đức Phật Thích Ca nói, cách đây với thời gian “tam thiên trần điểm kiếp”, có Đức Phật ra đời tên là Đại Thông Trí Thắng, thế giới tên là Hảo Thành, kiếp tên là Đại Tướng, đã giảng dạy kinh Pháp Hoa, với nội dung Tam Thừaphương tiệnNhất Thừachân thật. Niết Bàn của A La Hán là tạm thiết lập, Niết Bàn của Phật mới là chân thật tuyệt đối.

Bấy giờ Đức Phật Thích Ca là một trong mười sáu Vương tử, phát nguyện xuất gia làm Sa di Bồ tát, đệ tử của Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, đã từng thọ học Pháp Hoa với Đức Phật này, cũng đã từng giảng dạy, hướng dẫn vô số đệ tử tu học kinh Pháp Hoa.

Và nhiều vị Thanh VănBồ Tát đã từng học Pháp Hoa với Sa di Bồ tát Thích Ca ngày ấy, hiện nay vẫn đang có mặt ở trong hội Pháp Hoa tại đỉnh Linh Sơn này.

Như vậy, nguyên ủy kinh Pháp Hoa là nguyên ủy của giáo pháp Nhất Thừa đã có từ Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, theo sự trải nghiệm của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và có từ Đức Phật Đại Thông Trí Thắng đã trải qua tam thiên trần điểm kiếp được nói lại từ tuệ giác của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Và ở trong phẩm Phương Tiện, Đức Phật nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng: “Pháp Nhất Thừa chỉ có các Đấng Như Lai giác ngộ mới chứng biết. Và chư Phật xuất thế cũng để khai mở cái thấy biết của Phật ấy cho chúng sanh, để cho họ ngộ nhập đó là mục đích duy nhất.

Và chư Phật ba đời chỉ giáo hóa cho chúng sanh làm Bồ Tát, và sau đó là trao cho họ pháp Nhất Thừa để làm Phật, mà không có trao thừa nào khác.

Chư Phật ba đờimười phương có mặt trong thế gian cũng chỉ làm một việc đó thôi.

Nên, nay Như Lai cũng vậy”.

Do đó, lịch sử Pháp Hoalịch sử truyền thừa của chư Phật.

Lịch sử ấy đã có từ chư Phật với trải qua với vô lượng thời gian trong quá khứ, nó đang tiếp diễnhiện tại và sẽ tiếp diễn vô tận ở tương lai.

Đó là một trong những điểm độc đáo, không phải là nguyên ủy mà còn là lịch sử truyền thừa của Pháp Hoavô tận. Vô tận trong quá khứvô tận trong vị lai.

Tại sao? Tại vì hễ có tâm là có Phật, và có tâm là có chúng sanh. Tâm đã vô cùng, thì Phật cũng vô tận. Và Phật vô tận là để giáo hóa vô tận chúng sanh, khiến họ nhận ra được Phật tính ở nơi chính họ mà ngộ nhập.

Nên, việc Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với Bồ Tát Di Lặc ở phẩm Tựa về nguyên ủy Pháp Hoa, hay Đức Phật Thích Ca nói với Tôn giả Xá Lợi Phất về nguyên ủy Pháp Hoa ở phẩm Hóa Thành Dụ, cũng chỉ là nói theo ngôn ngữ ước lệ, xảo diệu, chứ không nói theo ngôn ngữ diễn tả “thực tướng về nguyên ủy”.

Hai ví dụ “tam thiên trần điểm kiếp” ở phẩm Hóa Thành và “vô số tam thiên trần điểm kiếp” ở phẩm Như Lai Thọ Lượng, đã cho ta thấy, nguyên ủy kinh Pháp Hoa hay nguyên ủy thành Phật của Phật Thích Ca là một nguyên ủy vượt thoát hẳn mọi ngôn ngữ ý niệm của con người.

Đó là điểm hết sức sâu thẳm, vi diệu và độc đáo, khi Đức Phật nói cho Tôn giả Xá Lợi Phấtthính chúng đương cơ Thanh Văn về nguyên ủy tu học Pháp Hoa của Ngài khi còn là chú Sa di Bồ tát.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15663)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10973)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53437)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12870)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16389)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15257)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19049)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19812)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15418)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15237)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20181)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23719)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15348)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12947)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19844)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13167)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28926)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11601)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18182)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16522)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13125)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12688)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13120)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12879)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12765)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13436)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11586)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14134)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17642)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22272)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13343)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14192)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105544)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14498)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38293)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15415)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34541)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15944)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11264)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15563)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13901)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12737)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13568)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12393)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19285)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13048)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13368)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21473)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17856)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21752)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15963)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15982)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18968)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24590)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant