Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Ý nghĩa đề kinh Pháp Hoa

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9192)
Chương 1: Ý nghĩa đề kinh Pháp Hoa

KINH PHÁP HOA TINH YẾU
Bhikkhu Thích Thái Hòa

CHƯƠNG I
Ý NGHĨA ĐỀ KINH PHÁP HOA

Đề kinh Pháp Hoa, tiếng Phạn là: सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् = Saddharmapuṇḍarīkasūtram.

सद् = Sad, đi từ động từ सत् = Sat, có nghĩa là hiện thực, đích thực, thực tiễn, chân thực, vi diệu, điều không thể diễn tả được,… सद् = Sad, Ngài Pháp Hộ, năm 286 TL, dịch là chánh.1 Ngài La Thập, năm 406, dịch là diệu.2

धर्म = Dharma, đi từ động từ धृ = DHṚ, có nghĩa là bảo toàn, duy trì, làm cho hiện hữu, sắp xếp, làm cho có trật tự, duy trì để hiện hữu,… Do đi từ động gốc như vậy, nên Pháp hay dharma có nghĩa là nguyên tắc hay nguyên lý tồn tại,… Các Hán bản đều dịch là pháp. 

पुण्डरीक = Puṇḍarīka, có nghĩa là hoa sen trắng. Ngài Pháp Hộ, năm 265TL, phiên âm là Phân đà lỵ và năm 286TL, dịch là hoa. Ngài La Thập, năm 406 TL, Cấp đa và Xà na khuất đa, năm 601 TL, đều dịch là Liên hoa. Ngài Tăng Duệ là một trong bốn vị đại đệ tử xuất chúng của Ngài La Thập giải thích rằng, hoa sen là loài hoa đặc biệt hơn hết thảy các loài hoa. Và hoa đúng độ nở, gọi là Phân đà lợi. Hoa sen chưa nở là dụ cho nhị thừa đạo; nở ra mà đã rụng là dụ cho Niết bàn và hoa đang đúng độ nở là dụ cho kinh nầy.3

Theo Không Hải, Phân đà lợi là loài hoa sen có trăm lá thuận theo nhau, mỗi lá sen đều tiếp nối nhau hoàn chỉnh khả ái, lá ngoài cực trắng, dần dần vào phía bên trong có màu vàng nhạt, hương của hoa sen nầy thơm cực kỳ đặc biệt. Xưa vua Lưu Ly hại con gái dòng họ Thích, Ngài Đại Ca Diếp lấy hoa sen nầy trong hồ A nậu đạt rẩy nước tám công đức vào thân tâm người nữ khiến cho họ liền được an lạc, khi sanh mạng kết thúc liền được sanh thiên.

Nhơn rẩy nước hồ lên đầu hoa liền thành chủng tử, hoa ấy ngày nay vẫn còn. Hoa đẹp và lớn, thẳng hơn một thước, nên hoa sen loại ấy, gọi là Phân đà lợi.4 

Vậy, सद्धर्मपुण्डरीक = Saddharmapuṇḍarīka, có nghĩa là pháp đích thực, pháp hiện thực, pháp thuần khiết, pháp nguyên vẹn, pháp không thể diễn tả, pháp vi diệu,… Pháp ấy ví như hoa sen trắng.

Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp đích thực, pháp hiện thực, pháp chính xác của chư Phật, nên Ngài Pháp Hộ dịch सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् = Saddharmapuṇḍarīkasūtram là Chánh pháp hoa kinh.5

Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.6

 Tại sao, ở kinh nầy, Đức Phật dùng hoa sen để ví dụ cho pháp? Vì đối tượng nghe kinh nầy là hàng Thanh văn, tức là những vị tu tập chưa chứng nhập được Pháp Niết bàn tuyệt đối, nên Đức Phật muốn dẫn dắt những vị nầy đi đến Niết bàn tuyệt đối ấy, vì vậy ở kinh nầy, Đức Phật đã sử dụng nhiều ví dụ để dụ cho pháp, khiến cho các đối tượng nghe pháp nương vào các ví dụ mà thâm nhập và thể chứng được pháp thân chân thực.

Trong tất cả các ví dụ ấy, hoa sen trắng là ví dụ rốt ráo, xuyên suốt, nguyên vẹn và thuần khiết cho pháp mà Đức Phật hiển thị ở trong kinh nầy. Hoa sen trắng là dụ cho Nhất thừa, Pháp thân chân thực hay Phật tính nơi hết thảy chúng sanh vậy.

Lại nữa, hoa sen được sử dụng để ẩn dụ cho kinh nầy, vì nó có những đặc điểm như sau:

1. Có hoa là có gương: Hoa sen, hễ khi có hoa là liền có gương. Đây là dụ cho nhân quả đồng thời của kinh Pháp hoa. Việc Long nữ hiến châu và liền thành Phật ở phẩm Đề bà đạt đa7 là hiển thị cho đặc điểm nầy.

Lại nữa, nhân quả đồng thời là dụ cho phương tiệncứu cánh, bản môn và tích môn, lý và sự, trí và bi, quyền và thực, đốn và tiệm, được trình bày ở trong kinh Pháp hoabất nhị. Nghĩa là chúng đồng thời có mặt trong nhau, không tách rời nhau.

2. Ở trong bùn không ô nhiễm: Hoa senđặc điểm ở trong bùn không ô nhiễm. Kinh Pháp Hoa đã sử dụng đặc tính nầy của hoa sen để dụ cho Phật tính. Phật tính của hết thảy chúng sanh tuy ở trong phiền não, nhưng không bị ô nhiễm. Việc Đề bà đạt đa phạm tội ngũ nghịch, đọa vô gián địa ngục, nhưng Phật tính nơi ông vẫn không mất, hễ hội đủ nhân duyên thì Phật tính nơi ông vẫn hiển lộ, nên ông đã được Đức Phật thọ ký thành Phật trong tương lai và ở phẩm Đà la ni, loài quỷ nữ do nhiều đời tạo ác nghiệp nên đã đọa vào quỷ đạo, nhưng Phật tính nơi họ không mất, hễ hội đủ nhân duyên thì Phật tính hiển lộ, vì vậy khi nghe kinh Pháp Hoa, Phật tính nơi họ liền sinh khởi và họ đã phát tâm hộ trì kinh Pháp Hoahiển thị đặc điểm nầy.

3. Hoa và cọng tách riêng với lá: Hoa senđặc tính hoa và cọng tách riêng với lá. Kinh Pháp Hoa đã sử dụng đặc tính nầy của hoa sen để ẩn dụ rằng, tam thừaThanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa đều từ nơi Nhất thừa mà biểu hiện, nhưng trong đó, Nhất thừa hay Phật thừatối thượng. Việc năm ngàn người, vì tâm tăng thượng mạn, bỏ đương hội Pháp Hoa lui vềhiển thị cho đặc điểm nầy.

4. Ong và bướm không thể hút nhụy: Do hoa senđặc tính nầy, nên kinh Pháp Hoa đã dùng đặc tính nầy để ẩn dụ rằng, đối với diệu pháp, thì hết thảy chúng sanh đều có, nhưng chúng sanh, vì tâm tăng thượng mạn,8 vì tâm tham dục, vì tâm tà kiến, vì tâm bé nhỏ, nên không tiếp nhận được diệu pháp. Những người đi nửa đường muốn trở quay về ở trong phẩm Hóa thành dụ là hiển thị cho đặc điểm nầy.

5. Không bị sử dụng để trang điểm: Do hoa senđặc tính nầy, nên kinh Pháp Hoa đã dùng đặc tính ấy để ẩn dụ rằng, những kẻ tiểu tâm, tà trí, buông lung theo các dục thì không thể sử dụng được diệu pháp để làm việc phi pháp, không thể lợi dụng chánh pháp để hành hoạt tà pháp. Người say quên hạt minh châu trong chéo áo của phẩm Năm trăm đệ tử thọ kýhiển thị cho đặc điểm nầy.

6. Hoa nở sen hiện: Do hoa senđặc tính nầy, nên kinh Pháp Hoa đã sử dụng đặc tính nầy để ẩn dụ rằng, ở trong diệu pháp có thực pháp và quyền pháp, ở trong Đức Phật lịch sửĐức Phật siêu lịch sử, ở trong thiên bách ức hóa thân của Phật Thích Ca đều có pháp thân không sanh diệt cũng như báo thân thanh tịnh và thường trú của Ngài. 

Quyền pháp là pháp phương tiện. Đức Phật đã sử dụng pháp nầy, tùy theo căn cơ, hoàn cảnh, trình độ của chúng sanh, mà Ngài vận dụng để thuyết pháp thích ứng, nhằm khai, thị, ngộ, nhập phật tri kiến cho chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh, dù đang ở vào vị trí nào, hoàn cảnh nào, trình độ nào cũng đều có thể ngộ, nhập được phật tri kiến.

Thực pháp là thực pháp của pháp hoa, là đệ nhất nghĩa chân thực. Pháp ấy là mục tiêu của Phật ra đời giáo hóa chúng sanh. Và là điểm đồng qui từ mọi phương tiện giáo hóa của Phật.

Đức Phật lịch sửĐức Phật ra đời cách đây hơn hai mươi sáu thế kỷ ở Népal Ấn Độ giáo hóa chúng sanh và đã nói kinh Pháp Hoa trên đỉnh Linh Sơn như ở phẩm Phương tiện của kinh nầy đã trình bày. Đức Phật siêu lịch sửĐức Phật siêu việt thời gian như phẩm Hiện Bảo Tháp và phẩm Như Lai Thọ Lượng của kinh nầy đã mô tả.

Do những đặc điểm thâm diệu của kinh như vậy, nên đặc điểm hoa nở sen hiện của hoa sen được sử dụng để nói lên những điểm thâm diệuthực tiễn của kinh nầy.

7. Hoa rụng sen thành: Với đặc điểm nầy của hoa sen, được sử dụng để ví dụ cho thời kỳ giáo hóa hàng đệ tử Thanh văn của Phật đã đến chỗ thuần thục rồi, nên Ngài không giảng dạy cho họ những kinh điển dưới mức Pháp Hoa mà phải giảng dạy kinh Pháp Hoathọ ký cho họ thành Phật trong tương lai. Đây gọi là thời kỳ Đức Phật thuyết pháp có nội dung phế quyền hiển thực, nghĩa là phế bỏ pháp phương tiệnchỉ thẳng pháp cứu cánh cho hàng thính chúng Thanh văn. Ví như hoa rụng thì sen thành. Việc các vị Bồ tát từ lòng đất vọt lên ở phẩm Tòng địa dõng xuất và việc Long nữ hiến châu ở phẩm Đề bà đạt đahiển thị cho đặc điểm nầy.

Đề kinh Pháp Hoa bao gồm cả Pháp và dụ một cách thực tiễnsâu xa như vậy, nên Ngài Nhật Liên Đại Sư (1222 – 1282), Tổ sư của Pháp Hoa Tông Nhật bản dạy rằng: “Chỉ cần thọ trì, đọc tụng đề kinh Pháp Hoa là có đủ nhân duyên để thành Phật”.

Theo Hám Sơn – Đức Thanh Đại Sư (1546 – 1623), đời Minh, đề kinh Pháp Hoachỉ thẳng Nhất chơn pháp giới của kho tàng tâm Như Lai. Và dùng ý nghĩa ấy mà lập tên vậy. Đại Sư còn giải thích, tâm cảnh không hai, thuần là nhất chơn, nên gọi là diệu pháp. Nhưng, hết thảy chúng sanh ở trong diệu pháp mà mê, nên gọi là “tạng thức”. Ở nơi “tạng thức” mà chư Phật giác ngộ, gọi là “Như Như lai tạng”. Y vào nhất tâmkiến lập “Pháp giới liên hoa tạng”.

Do đó, chơn vọng xuyên suốt, nhiễm tịnh dung thông, nhân quả đồng thời, thỉ chung đồng một ngằn mé.

Vì vậy, nếu ước theo dụ, thì lấy hoa sen làm biểu tượng, nhưng nếu ước theo pháp, thì chỉ thẳng bản thể giác ngộ của tâm (Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa).

Theo Thanh Đàm Đại Sư triều Gia Long, thì Diệu pháp là chỉ cho thực pháp. Pháp là tâm xưa nay thanh tịnh. Tâm ấy xưa nay không sinh, không diệt, không nhớp, không sạch, không thêm, không bớt, tại phiền não không loạn động, tại trần lao không ô nhiễm, nên gọi là tâm xưa nay thanh tịnh vậy.

Lại nữa, tâm ấy là bản nguyên của chư Phật, là phật tánh của chúng sanh. Tròn đồng thái hư, rộng lớn không ngằn mé. Linh linh, lặng lặng, suốt xưa, suốt nay, yên yên, lắng lắng, chính là không, chính là sắc, không thể dùng tâm thức suy lường, phân biệt mà có thể biết được.

Đức Thế Tôn, vì muốn đem một việc lớn là “đại tâm” nầy, mà trao phó cho hàng bồ tát, tạo thành nhân địa của tâm, làm gốc tu nhân, sau đó mới thành tựu quả địa tu chứng, nên gọi là diệu pháp.

Lại nữa, diệu pháptùy theo tác dụngthiết lập vô lượng tên gọi khác nhau như: Đại sự nhân duyên; Phật tri kiến đạo; Cứu cánh Phật tuệ; Nhất thiết chủng trí.

Liên hoathí dụ. Lấy trong sạch không ô nhiễm làm nghĩa. Tất cả thế gian không kham nhận tâm thanh tịnh ấy, nên kinh lấy hoa sen mà dụ cho tâm ấy. Hoa sen sinh ra ở trong bùn nước, nhưng không bị bùn nước làm cho ô nhiễm, cũng như tâm ở trong trần lao mà không bị trần lao làm mê hoặc.

Tuy nhiên, tâm khônghình tướng, nhưng hoa lại có xanh vàng. Do nhân nơi hoa mà rõ được cái thấy. Nhân nơi cái thấy mà biết hoa. Sắc tướng của hoa là vô tình. Cái thấy, cái biết thuộc về tâm chân thực. Chỉ cần không vọng khởi phân biệt, thì vạn vật và ta vốn là như như.9

Tóm lại, đề kinh đã dùng hoa sen để ví dụ cho diệu pháp. Diệu pháp chính là nhất thừanhất thừaPhật tính. Phật tínhtính giác ngộ vốn có nơi hết thảy chúng sanh. Tuy, chúng sanh đang bị trôi lăn trong bùn lầy sanh tử, nhưng Phật tính nơi họ không những không mất, mà còn không bị ô nhiễm, hễ đủ duyên thì Phật tính ấy sẽ khởi sinh và tựu thành quả vị giác ngộ. Cũng vậy, ví như hoa sen, tuy bị chìm ngập ở trong nước bùn, nhưng đủ duyên và đúng thời, nó sẽ nở ra hương thơm thanh khiết, vô nhiễm.

Do đó, đề kinh đã dùng hoa sen để ví dụ cho đạo lý nhất thừa hay Phật tính vậy.

Lại nữa, theo Pháp Hoa Kinh Khai Đề, Diệu Pháp Liên Hoamật hiệu của Quán Tự Tại Vương, danh hiệu Phật nầy cũng còn gọi là Vô Lượng Thọ, hiện đã thành Phật ở nơi quốc độ Tịnh Diệu. Nhưng, khi lưu lại ở thế giới tạp nhiễm đầy năm sự dơ bẩn, làm vị Bồ tát Quán Tự Tại với tên Nhất thiết pháp bình đẳng Quán tự tại trí ấn.

Nếu có những ai nghe được lý thú nầy, mà thọ trì, đọc tụng, tác ý, tư duy, thì cho dù người ấy đang ở trong thế giới của các dục, nhưng ví như hoa sen, ở trong trần cấu mà không bị khách trần làm cho ô nhiễm, người ấy có thể nhanh chóng thành tựu quả vị Vô thượng bồ đề.

Và lại nữa, Diệu Pháp Liên Hoabản thể của thế giới Liên Hoa Đài Tạng, là Thuờng Tâm Bản Địa của đức Phật Tỳ Lô Giá Na.10

Như vậy, đề kinh không những chỉ dùng hoa sen dụ cho pháp mà còn dùng hoa sen để dụ cho tên gọi của hạnh tu và bản thể của pháp chứng ngộ nữa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15788)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11093)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53697)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13008)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16547)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15422)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19182)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19960)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15581)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15367)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15161)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20371)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23989)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15514)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13066)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20175)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13303)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29036)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11730)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18326)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16659)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13265)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12826)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13275)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13010)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12904)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13033)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13567)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11739)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14263)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17763)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22642)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13473)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14357)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105818)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14625)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19813)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38453)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15553)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34716)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16083)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11372)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15688)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14051)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12848)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13733)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12530)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19400)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27050)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13167)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13500)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21634)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18001)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21937)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14237)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16093)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16170)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19145)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24806)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant