Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11. Phẩm Thứ Mười Một: Hiện bảo tháp

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11134)
11. Phẩm Thứ Mười Một: Hiện bảo tháp

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Mười Một: Hiện bảo tháp

Chúng ta hãy đi sang Phẩm thứ 11, tức là Phẩm Hiện Bảo Tháp, trang 295.

Tôi có quen một người tên là Jim Forest. Một hôm tới thăm anh ở New York, tôi thấy anh chứa trong kho của anh những vỏ chai Coca Cola. Khi có người đến thăm, anh thường mời họ uống Coca Cola. Nếu người khách đó nổi tiếng, anh ghi tên vị đó vào một miếng giấy, dán vào vỏ chai và giữ lại trong kho làm kỷ niệm. Vỏ chai Coca Cola đâu có giá trị gì nhiều, nhưng tại vì chai Coca đó đã được nhân vật nổi tiếng kia uống, nên anh Jim đã thấy cái giá trị riêng của nó.

Cũng vậy, mảnh đất mà trên đó có người tụng kinh Pháp Hoa sẽ trở nên một vùng đất rất có giá trịChúng ta thấy những họa sĩ tài ba như Van Gogh hay những nhà văn nổi tiếng như Charles Dickens, những món đồ họ để lại như một cây gậy, một cái nón v.v..., tất cả đều trở thành những vật quí giá, rất đắt tiền. Vậy thì sự linh thiêng hay quí giá của một vật không phải là do bản chất của nó, mà do một cái có giá trị tâm linh đã đi ngang qua đó và đã đồng nhất với vật đó. 

Trong phẩm này chúng ta thấy có một hiện tượng tương tự như vậy hiển bày ra. Đó là khi Bụt đang thuyết pháp và đang thọ ký cho những người đáng được thọ ký, thì phía trước mặt tự nhiên có một bảo tháp xuất hiện. Bảo tháp này xây bằng bảy thứ châu báu, cao 500 do-tuần, và rộng 250 do-tuần, từ dưới đất nổi lên và an trú ở trong không trung. Bảo tháp này tượng trưng cho sự xuất hiện của Bản môn trong thế giới ta bà, tức là cái bất diệt đang xuất hiện trong cái sinh diệtBảo tháp đó là bảo tháp của một vị Bụt tên là Bụt Đa Bảo (Prabhũtaratna). Bụt Đa Bảo là một vị Bụt đã xuất hiện trong lịch sử, đã tu thành Bụt và đã phát lời thệ nguyện rằng, khi thành Bụt và sau khi đã nhập Niết Bàn rồi, khắp hoàn vũ nơi nào có người nói kinh Pháp Hoa, thì tháp của tôi sẽ hiển hiện ra nơi đó, và từ trong tháp sẽ vẳng ra tiếng nói của tôi, khen ngợi người đang nói Pháp. Đó là lời nguyện của vị Bồ Tát trước khi thành Bụt gọi là Bụt Đa Bảo. Đây là một hình ảnh rất tuyệt vời. Đứng về phương diện thi ca mà nói thì đó là một hình ảnh rất đẹp, rất tân kỳ, rất khéo léo. Làm thơ mà làm được như vậy thì quả là tuyệt diệu. Nơi nào có người nói Pháp Hoa, giảng thuyết về Pháp Hoa thì cái bảo tháp tượng trưng cho cả tâm hồn tôi, trái tim tôi, hạnh nguyện của tôi sẽ có mặt tại chỗ đó, và từ trong bảo tháp sẽ có tiếng tôi vọng ra, khen rằng: "Hay quá, hay quá!"

Khi bảo tháp của Bụt Đa Bảo đột nhiên xuất hiện trên hư không như vậy thì tất cả mọi người đều trầm trồ nhìn lên, không biết bảo tháp từ đâu hiện lênBảo tháp rất lộng lẫy, huy hoàng và trong tháp vọng ra những tiếng ngợi khen rất là mầu nhiệm. Tất cả đại chúng đều ngạc nhiên, ai cũng muốn hỏi Bụt về nguồn gốc của tháp ấy. Từ trước đến nay chúng ta đã ngồi trên núi Thứu, chân ta chấm đất, chúng ta đang ở trong bình diện của lịch sử, của Tích môn, có thầy, có trò, có quá khứ, có hiện tại, có vị lai. Nhưng giờ đây thì nhờ thần lực của Bụt Đa Bảochúng ta đã được đưa từ thế giới của lịch sử sang thế giới của bản thể, không còn thời gian, không còn không gian nữa. Từ thế giới của tương đối, chúng ta được đi vào cái thế giới của tuyệt đối, và tháp Đa Bảo là cánh cửa mở ra để cho ta đi từ thế giới sinh diệt vào thế giới của bất sinh bất diệt. Bây giờ đây núi Thứu đã biến mất và cái không gian mênh mông kia trong đó có bảo tháp xuất hiện là một cái thế giới mới, trong đó chân của chúng ta không còn chấm đất nữa, bởi vì chúng ta đã đi vào một thế giới không có trên không có dưới, không có trong ngoài, không có trước sau, thế giới của Bản môn. Ở đây, Bụt Đa Bảo là dấu hiệu của bất diệt, hiển hiện ngay trong cái thế giới của sinh diệt. Nói cho cùng thì sự tu học của ta là để nhận diện được cái bất diệt trong cái sinh diệt, và chúng ta có thể nhận diện bằng chánh niệm. Lúc ban đầu thì chánh niệm còn yếu, nhưng từ từ sẽ vững chãi, và chánh niệm càng vững chãi bao nhiêu thì cái khuôn mặt của bất diệt xuất hiện trong thế giới của sinh diệt càng trở nên rõ ràng bấy nhiêu. 

Năm 1964 khi viết bài Đêm cầu nguyện, tự nhiên trong tôi ý đó xuất hiện:

Giờ phút linh thiêng
Gió lặng chim ngừng
Trái đất rung động bảy lần
Khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt

Sự xuất hiện của Bụt là lúc cái bất diệt đi ngang dòng sinh diệt, nó tạo nên một cái gì tương đương như một cái "electric shock". Khi cái bất diệt xẹt ngang qua dòng sinh diệt, khi cái Bản môn chạm vào cái Tích môn, thì tự nhiên có một sự chấn động, và người có chánh niệm tiếp nhận được sự rung chuyển đó. Sự rung chuyển đó rất vĩ đại, nó được biểu lộ bởi sự chấn động của trái đất đến bảy lần. Thế giới của kinh điển chứa đầy chất liệu thi ca huyền ảo, vì những hình ảnh thi ca đó diễn tả được những ý tưởng rất sâu sắc, nhiệm mầu. Trong bài thơ kia tôi còn viết:
Giờ phút linh thiêng
Đóa bất diệt nở ngay giữa vườn hoa sinh diệt
nghĩa là trong vườn hoa chúng sanh sinh diệt, mình thấy được một đóa hoa bất diệt, đó là Bụt,

Ngài về đây học nói tiếng loài người
bởi vì cái bất diệt hiện giờ đang khoác áo sinh diệt. Bụt nói tiếng nói của Chân như, của Pháp Thân, khác với tiếng nói của chúng sanh. Nhưng vì chúng sanh, Ngài phải học tiếng nói của loài người để loài người có thể từ từ hiểu được tiếng nói của Pháp Thân. Tiếng nói của Pháp Thân có thể được nghe qua tiếng chim hót, tiếng gió reo, nhưng vì đã đánh mất quê hương lâu rồi nên ta không có khả năng để nghe tiếng nói của chân như nữa. Vì vậy cho nên phải có người dạy cho ta trở lại. Người dạy cho mình đã từ thế giới của chân như, thế giới của bản thể, của bất diệt đi tới, nên người đó phải học tiếng nói của sinh diệt để có thể khai thị cho mình cái bản chất bất diệt. Học nói tiếng loài người ở đây không phải chỉ đơn thuần học ngôn ngữ, mà còn phải quán cơ về tâm ý và sở thích của loài người. Nụ giác ngộ hé thành muôn thi thiết. Nụ giác ngộ phải được biểu hiện ra bằng muôn ngàn phương tiện, Ngài về đây học nói tiếng loài người, để cho loài người từ từ tập nghe cái ngôn ngữ của chân như trở lại. Đó là công trình biểu hiện bằng giây phút chấn động, va chạm giữa Tích môn và Bản môn.
Lúc thấy tháp Đa Bảo, tất cả các vị Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác, hữu họcvô học đều đồng một lòng xin Bụt mở tháp Đa Bảo ra cho đại chúng thấy được Phật thân của Bụt Đa Bảo. Nghĩa là mọi người muốn thấy cái bất diệt bằng con mắt của sinh diệt

Trang 298: Lúc bấy giờ Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết do sức thần của đức Như Lai mà bạch Bụt rằng: "Bạch đức Thế Tôn, chúng con nguyện muốn thấy cái chân thân của Bụt Đa Bảo". Đúng là tâm trạng của chúng mình, thấy bảo tháp đó, nghe tiếng nói êm dịu và oai hùng đó vọng ra, ta tò mò muốn thấy người ngồi trong ấy dáng vóc như thế nào mà có được cái hạnh nguyện và giọng nói kia. Khi Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết đại diện cho tất cả đại chúng tỏ ý muốn thấy Bụt Đa Bảo, thì Bụt Thích Ca nói: Khoan đã, bây giờ ta phải làm việc rất quan trọng này trước, rồi mới có thể mở được tháp này cho quí vị thấy chân thân của Bụt Đa Bảo, Bụt của bất sanh bất diệt. Ta đã được thấy Bụt Thích Ca rồi, nhưng vẫn còn muốn thấy Bụt Đa Bảo, Bụt của Bản môn, tại vì Bụt Thích Ca là Bụt có sinh có diệt, Bụt của Tích môn. Và Bụt Thích Ca giải thích rằng: Ngày xưa Bụt Đa Bảo có dặn rằng mỗi khi bảo tháp của ta xuất hiện và nếu đại chúng ở đó muốn mở tháp để thấy chân thân ta, thì vị Bụt đang thuyết giảng Pháp Hoa phải gọi tất cả những hóa thân của mình ở khắp mười phương thế giới về có mặt tại đó, rồi mới được mở tháp. Vậy đại chúng hãy đợi tôi gọi tất cả các hóa thân của tôi từ mười phương thế giới về, thì chúng ta mới có đủ điều kiện mở bảo tháp của Bụt Đa Bảo.

Đây là một điều rất mầu nhiệm. Đây là những phương tiện giúp cho ta có đủ điều kiện, có được con mắt để nhìn vào Bản môn. Lâu nay con mắt của ta quen nhìn theo lối Tích môn, quen nhìn thế giới trong cái quá trình lịch sử, trong cái thời giankhông gian của nó. Giờ đây muốn nhìn cái chân diện mục của Bản môn thì khó lắm, vì vậy cho nên phải thay đổi nhận thức, và hành động này là một hành động tập sự để cho người ta thấy rằng Bản môn không hề bị tách rời ra khỏi Tích môn. Vì vậymọi người phải nhìn lại để thấy được tất cả các hóa thân của Bụt Thích Ca. Thấy rõ được Bụt Thích Ca thì tự nhiên có thể thấy được Bụt Đa Bảo. Lúc đó Bụt Thích Ca mới tiết lộ cho mọi người biết rằng Ngài hiện giờvô lượng, vô số hóa thân, đang giảng dạy khắp nơi trong cõi tam thiên đại thiên thế giớiCon người đang ngồi ở đây mà quý vị tưởng là thầy của quý vị, chưa đích thực là Thích Ca Mâu Ni đâu. Tôi phải gọi tất cả các vị hóa thân của tôi về đây để quý vị nhận diện, để quý vị thấy được tầm vóc đích thực của tôi, thì chúng ta mới có thể mở được tháp Đa Bảo. Lúc đó mọi người mới giật mình kinh ngạc, thấy rằng thầy mình không phải chỉ là cái nhục thân đang ngồi trước mặt mình. Thầy mình có gốc rễ trong thời gian vô cùngkhông gian vô biên của pháp giới Bản môn.

Sang trang 299: Lúc bấy giờ Phật phóng một lằn sáng từ nơi chùm lông trắng ở giữa chặn mày, ánh sáng chiếu tới năm trăm muôn ức na-do-tha (8) hằng hà sa cõi nước ở phương Đông. Khi hào quang chiếu tới đâu thì đại chúng thấy rõ tới đó, những cõi nước rất trang nghiêm, rất đẹp đẽ, chứ không ô nhiễm xấu xa như cõi ta bà này. Sau khi chiếu hào quang ấy về phương Đông thì Bụt lại chiếu nó về phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Trên, phương Dưới và cũng làm hiển lộ cho mọi người thấy được các cõi Bụt vô lượng như vậy, rất là đẹp đẽMọi người đều thấy rằng ở tất cả các cõi đó đều có một Bụt Thích Ca Mâu Ni đang thuyết pháp, và đại chúng bao quanh các vị cũng đông đảo vô cùng. Khi ánh hào quang chiếu tới, các vị Bụt hóa thân ấy đều nói: Đức Thích Ca Mâu Ni đang gọi tất cả chúng ta trở về để sẵn sàng mở tháp Đa BảoHằng hà sa số các vị Thích Ca Mâu Ni đang hành đạo trong mười phương thế giới, trong nháy mắt đều trở về núi Thứu, nơi mà Bụt Thích Ca muốn họ trở về. Khi về đến, các vị Thích Ca Mâu Ni mỗi người ngồi trên một tòa sư tử, tràn đầy cả hư không, hàng trăm triệu vị gia nhập vào đại hội Linh Sơn. Lúc đó Bụt Thích Ca Mâu Ni mới nói: Bây giờ chúng ta có thể mở tháp Đa Bảo ra được rồi.

Nếu khôngcảnh tượng này, nếu khôngphương tiện này để cho đại chúng học tập, thì đại chúng vẫn nghĩ rằng Bản môn là một cái gì tách lìa ra khỏi Tích môn. Nhìn kỹ vào Bụt Thích Ca thì thấy Bụt Thích Ca là một thực tại nhiệm mầu không thể nghĩ bàn được. Không thể giam Bụt của mình, giam thầy của mình vào trong một khoảng không gian 80 năm, trong một quốc độ có 500 triệu dân, trong một không gianthời gian nhỏ bé như vậy được. Sự hiện thành biến tướng dùng hào quang quét mười phương thế giới để cho mọi người thấy được rằng Bụt Thích Ca Mâu Ni có mặt đồng thời trong hết mười phương, vô lượng, vô số, vô biên và đang qui hội lại một chỗ là để cho đại chúng thực tập, để cho đại chúng có được con mắt sáng hơn, ít bụi trần hơn, mà đón nhận Bụt Đa Bảo, tức là Bụt của Bản môn. Đây là một phẩm kinh rất đẹp. Những hình ảnh này đều là những hình ảnh thi ca tuyệt diệuNếu không có những hình ảnh này thì ta khó có thể nói ra được cái triết lý thâm sâu về Tích môn và Bản môn.

Trang 304: Lúc bấy giờ Bụt Thích Ca Mâu Ni thấy các vị Phật-Phân-Thân của mình đều đến đầy đủ, ngồi trên tòa sư tử và tất cả đều có ý muốn đồng mở tháp báu của Bụt Đa Bảo, tức thì Người liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trụ trong hư không và sẵn sàng mở tháp. Lúc bấy giờ mọi người đều đứng dậy tại vì đây là giờ phút linh thiêng của sự mở tháp. Đứng dậy ở đây có nghĩa là rời khỏi cái thế giới của Tích môn, và đứng dậy như vậy đâu phải là chuyện dễ dàng. Phải chuẩn bị trước, phải thực tập trước. Đức Bụt Thích Ca trụ trong hư khôngmọi người cũng vậy, tức là tất cả đều đã đi vào thế giới của Bản môn. Lúc đó Bụt Thích Ca Mâu Ni dùng ngón tay bên hữu mở cửa tháp thì có một âm thanh rất trong trẻo vang ra rất lớn, và tất cả mọi người đều trông thấy Bụt Đa Bảo ở trong tháp hiện ra ngồi trên tòa sư tử, toàn thân vẫn còn nguyên vẹn. Bụt Đa Bảo tuy đã nhập diệt từ lâu, nhưng vẫn ngồi im lặng như trong cảnh thiền định, và Bụt lại mở miệng nói: "Hay thay! hay thay! Bụt Thích Ca Mâu Ni, Ngài đang nói kinh Pháp Hoa và vì kinh Pháp Hoa mà tôi đã tới đây để chứng kiến và yểm trợ". Lúc đó tất cả hàng tứ chúng đều thấy một vị Bụt đã diệt độ từ vô lượng nghìn muôn ức kiếp về trước, mà vẫn còn hiện tiền trong giây phút hiện tại, thì lấy làm ngạc nhiên vô cùng. Đây là một việc chưa từng thấy, tức là việc thấy được tính chất bất sinh bất diệt của những cái mà lâu nay mình cứ nghĩ là có sinh có diệt. Tôi chưa bao giờ từng sanh, mà cũng không bao giờ từng diệt. Rời được thế giới của Tích môn để đi vào thế giới của Bản môn là một chuyện khó, vậy mà ở đây tất cả thầy trò đều đã thực tập để có thể làm được việc đó. Lúc bấy giờ hoa ở trên trời rơi xuống như mưa để cúng dường hai vị Bụt Đa BảoThích Ca, một vị Bụt thuộc Bản môn và một vị thuộc Tích môn. Vì trong tâm của thính chúng vẫn còn sót lại một vài dấu tích của phân biệt: Vì còn nghĩ rằng Bụt Thích Ca là Bụt lịch sử, Bụt của hiện tại, và Bụt Đa Bảo là Bụt của quá khứ hay là Bụt của Bản môn, của bất diệt, cho nên ngay lúc đó có một sự kiện vô cùng tuyệt diệu khác xảy ra để gột tẩy, xóa sạch một cách tuyệt đối những phân biệt này. Đó là Bụt Đa Bảo ngồi xích sang một bên, để dành nửa tòa sư tửlên tiếng: Thích Ca Mâu Ni, mời Ngài đến ngồi cạnh tôi. Như vậy là tòa sư tử được chia hai, một bên đức Đa Bảo ngồi, một bên đức Thích Ca ngồi, cảnh tượng đẹp vô cùng! Điều này chứng tỏ hai là một, Bản môn và Tích môn chỉ là một. Mà cũng không phải là một nữa, tại vì nếu còn một thì lại còn hai.

Trang 305: Lúc đó Bụt Đa Bảo ở trong tháp báu chia nửa tòa ngồi cho đức Thích Ca Mâu Ni và nói rằng, Thích Ca Mâu Ni, Ngài có thể đến ngồi trên tòa này với tôi, tức thời đức Thích Ca Mâu Ni đi vào trong tháp báu và ngồi xếp bàn trên nửa tòa, một bên Bụt Đa Bảo. Không thể có hình ảnh nào đẹp hơn nữa. Bất diệt đi ngang dòng sinh diệt, và sinh diệt trở nên bất diệt, giữa hai cái, không còn có sự phân biệt nào nữa.

Lúc ấy bảo tháp an trú ở trên cao và chỉ có các hóa thân của Bụt Thích Ca và các vị Bồ Tátsung sướng vì thấy được cảnh tượng ấy, số còn lại vì còn thấp bé, cho nên không thấy được. Vì vậy nên trong lòng họ phát ra một lời ước nguyện: Đức Bụt Đa Bảo ngồi cao quá, ngưỡng mong đức Như Lai dùng sức thần thông cho chúng con lên cao để chúng con có thể trông thấy được. Khi biết được cái tâm niệm đó của chúng sanh, Bụt Thích Ca Mâu Ni liền dùng phép thần thông đưa tất cả đại chúng trong hội Linh Sơn lên cao để cho mọi người được chiêm ngưỡng cái khung cảnh mầu nhiệm đang xảy ra trước mắt. Lúc đó mọi người hoan hỷ nhìn vào và thấy Bụt Đa Bảo đang ngồi rất tự tại, trang nghiêm, uy hùng và đẹp đẽ ở trong tháp.

Đối với các hóa thân của Bụt Thích Ca và những vị Bồ Tát, thì tiếp xúc với Bản môn rất dễ, tại vì các Ngài không còn bị dính vào những cái tướng trạng bên ngoài, những cái ý niệm. Còn những người thuộc giới Thanh văn và Duyên giác, vì mới bắt đầu nếm được mùi vị Đại Thừa, nên chuyện phá tướng của họ chưa thực hiện được nhiều. Họ còn bị dính kẹt vào các tướng như có, không; tới, đi; một, nhiều; trong, ngoài; trước, sau; quá khứ, tương lai; cho nên họ còn bị một loại keo dán chặt họ vào mặt đất, thì làm sao họ tiếp xúc được với Bản môn? Cũng như khi tâm mình còn đau buồn thì làm sao mình thấy được cảnh trí nhiệm mầu của hoa vàng trúc tím, trăng trong mây bạc? Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ là như vậy. Cho nên Bụt Thích Ca mới dùng phương tiện đưa họ lên khỏi mặt đất để họ có thể thấy được. Đưa lên khỏi mặt đất ở đây nó có nghĩa là giúp cho họ phá bỏ được mọi sự dính mắc vào các tướng, như bốn tướng ở trong kinh Kim Cương: Tướng Ngã, tướng Nhân, tướng Chúng sanh, và tướng Thọ giảNgoài ra còn biết bao nhiêu tướng khác nữa. Tướng là ý niệm, là khái niệm. Đọc kinh không thấy được những điều đó, mà chỉ thấy toàn những phép thần thông, thì mình chẳng học được gì từ kinh cả.

Ta không còn đòi hỏi một cái gì nữa hết, tất cả những ước mơ của ta đều đã được thành tựu, không có một trở ngại nào mà ta đã không vượt qua được, đó là nhờ cái thần biến, nhờ cái phương tiện, nhờ cái thi thiết của Bụt. Muốn mở bảo tháp ra xem thì tháp được mở. Nhưng muốn thấy được chân thân của Bụt Đa Bảo thì phải thấy rõ được chân thân của Bụt Thích Ca, vì vậy mà Bụt Thích Ca đã phải gọi tất cả những hóa thân của mình về để đại chúng có thể hiểu được phần nào cái sự thậtnếu không thấy rõ được Bụt Thích Ca thì không thể nào thấy được Bụt Đa Bảo. Đi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, cửa mở rồi, thấy Bụt Đa Bảo rồi, nhưng người ta vẫn nghĩ rằng Bụt Đa Bảo và Bụt Thích Ca là hai vị Bụt khác nhau, vì vậy mới có cảnh tượng là Bụt Đa Bảo nhường một nửa tòa sư tử cho Bụt Thích Ca. Khi hai vị Bụt ngồi với nhau như vậy rồi, vẫn thấy chưa đủ, vẫn muốn được nâng lên cao để tự mình nhìn thấy, và Bụt cũng đã làm thỏa mãn cái nguyện ước đó. Quả thật không có gì mà Bụt không làm để cho chúng sanh có thể thấy được sự thật bất nhị về Bản môn và Tích môn.

Phẩm Hiện Bảo Tháp là một phẩm thật đẹp, giống như một màn kịch, trong đó những tình tiết liên tục xảy ra, mỗi tình tiết mang một ý nghĩa, và sự diễn biến của những tình tiết đó có mục đích giúp ta trong quá trình vượt thoát những ý niệm để có thể tiếp xúc được với Bản môn, nghĩa là với tự thân của thực tại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31348)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26231)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27541)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27936)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26732)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31251)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20286)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22973)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30085)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21598)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20289)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22691)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20791)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30344)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28811)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34762)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44250)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35545)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22567)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21389)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20706)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24779)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37939)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19084)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19356)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21853)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20896)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29537)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35175)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28842)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32624)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26239)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28946)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43173)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34983)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43965)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37929)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21345)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43042)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39873)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53805)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36839)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40833)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49744)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47336)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27757)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27041)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27245)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24082)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20869)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34329)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22494)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25138)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25869)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22972)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22480)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21770)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23333)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant