Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17. Phẩm Thứ Mười Bảy: Phân biệt công đức

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11285)
17. Phẩm Thứ Mười Bảy: Phân biệt công đức

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Mười Bảy: Phân biệt công đức

Hôm nay chúng ta học phẩm thứ 17 tức là Phẩm Phân biệt công đứcCông đức là tiếng ghép của công-phu và đức-hạnh. Đây là một loại năng lượng mà khi hành trì thì ta thâu thập được. Năng lượng này giữ gìn cho ta, làm cho ta có trí tuệ, có hạnh phúc, có cái nhìn sáng, có cái nghe rõ, và có sự có mặt rất sâu sắc. Công đức tiếng Phạn là PuẾya, tiếng Pháp là Mérites.

Phẩm này cho chúng ta thấy được những lợi ích, và những công đức của sự thọ trì Pháp Hoa. Thọ là tiếp nhận, trì là thực tập, hành trì. Trong phẩm này chúng ta được học rằng nếu người nào có cơ hội được nghe Pháp Hoa, và trong khi nghe Pháp Hoa mà trong lòng phát khởi một niềm vui, một niềm hoan hỷ, một niềm tin yêu thì dầu cho điều này chỉ xảy ra trong một niệm thôi, thì công đức cũng là vô lượng. Đó là một hạt giống rất tốt, và chính nhờ hạt giống tốt đó mà ta thành tựu được cái công trình vĩ đại sau này.

Trong phẩm trước chúng ta đã học về thọ mạng của Như LaiThọ mạng tức là cái chiều dài của cuộc sống. Chúng ta đã thấy rằng Như Lai có mặt trong thời gian vô cùng và trong không gian vô biên. Nghĩa là nhìn vào đức Thích Ca Mâu Ni, ban đầu chúng ta chỉ thấy được một hóa thân thôi, chỉ thấy được Bụt trong thế giới sinh diệt, trong khung cảnh Tích môn. Nhưng nếu tiếp tục nhìn cho sâu sắc, ta có thể phát khởi được Bụt của thời gian vô cùngkhông gian vô tận, và chúng ta tiếp xúc được với Bụt của Bản môn. Nếu người nào nghe được, hiểu được, tin được điều đó, thì coi như người đó đã ngồi dưới cội bồ đề, sắp sửa thành Bụt, không xa mấy nữa. Thấy được điều đó, ngộ được điều đó, hiểu được điều đó, tin được điều đó, tức là gần với quả vị Bụt lắm rồi, đã sắp bắt ấn địa xúc rồi.

Khi đó đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Di Lặc rằng: A-dật-đa, trong khi tôi nói với quí vị về cái thọ mệnh của Như Lai, thì có hằng hà sa chúng sanh đạt tới cái pháp nhẫn gọi là vô sanh (Vô sinh pháp nhẫn). Bụt nói trong thế giới của Tích môn, đồng thời cũng nói trong thế giới của Bản môn. Trong hai thế giới đó, số người nghe Bụt là vô lượng, vô biên, và Bụt luôn luôn ám chỉ điều đó trong bất cứ giây phút nào. Vì vậy mà số người đang nghe và đang chứng được Vô sinh pháp nhẫnvô lượng vô số na-do-tha hằng-hà-sa. Hằng hà sa tức là số cát ở sông Hằng; Na-do-tha Hằng hàvô số sông Hằng. Mỗi sông hằng có bao nhiêu là cát, vậy mà ở đây kinh nói có na-do-tha sông Hằng, và không phải chỉ có một na-do-tha, có đến sáu trăm tám muôn ức na-do-tha sông Hằng! Số cát trong tất cả các sông Hằng đó, là tượng trưng cho số chúng sanh đã đạt tới Vô sanh pháp nhẫn khi họ nghe nói về thọ mạng, về cái tính cách bất sinh bất diệt của Bụt. Vô sinh có nghĩa là không sanh ra, Tôi chưa bao giờ từng sanh mà cũng chưa bao giờ từng diệt. Bụt là như vậy và mình cũng như vậy. 
Người có tâm niệm hẹp hòi thì không chứa đựng nổi sự thật đó, không tin được điều đó. Cũng như một trái bong bóng chỉ có thể chứa đựng được một ít không khí thôi, nếu bơm vào nhiều quá thì nó sẽ nổ. Những con người có ít đức tin, có cái thấy nông cạn, bèo bọt, thì không có khả năng tiếp nhận những chân lý lớn. Cái khả năng tiếp nhận chân lý lớn gọi là Nhẫn, Pháp nhẫnHạnh phúc cũng vậy, hạnh phúc lớn cũng cần phải có một pháp nhẫn vĩ đại mới có thể chứa đựng được. Chúng ta là những người có tâm lượng chưa lớn gì mấy, chưa đủ mạnh, vì vậy chúng ta chịu đựng hạnh phúc lớn chưa được, chúng ta chỉ chịu đựng được những hạnh phúc nho nhỏ thôi. Nếu nhận một hạnh phúc lớn hơn sức chịu đựng của chúng ta, thì chúng ta sẽ bùng nổ. Nhiều người nghe tin trúng số độc đắc, họ té xỉu, đứng tim luôn, là vì họ không đủ sức chịu đựng được cái tin vui quá lớn lao đối với họ như vậy. Đau khổ cũng vậy, có những trường hợp người ta không dám cho bà mẹ biết tin con bà tử nạn, vì bà sẽ không chịu nổi cái đau khổ đó. Tất cả là vì không có cái nhẫn.

Vô sinh cũng là một tin mừng rất lớn. Chúng ta cứ in trí rằng mình có sanh có diệt, có còn có mất, có tới có lui. Chúng ta đã yên chí như vậy từ lâu rồi, bây giờ có người mở kho tàng sự thật ra, và cho chúng ta biết một sự thật vô giáchúng ta chưa bao giờ sanh, mà cũng chẳng bao giờ diệt, thì chúng ta có thể chịu đựng được cái sự thật đó hay không? Những người nghe Bụt nói tới cái thực tại vô sanh vô diệtchịu đựng được, mỉm cười được, tin tưởng được, là những người đã đạt được một quả vị gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Có kinh nói rằng Ma-da phu nhân sau khi sanh thái tử rồi thì hạnh phúc lớn lao quá, khiến Bà không chịu đựng nổi, nên Bà phải sinh lên cõi trời. Lại cũng có hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu các vị Bồ Tát nhiều bằng bao nhiêu muôn ức na-do-tha Hằng hà sa, khi được nghe sự thực về vô sinh, về thọ mạng của Thế tôn thì đạt được cái Đà-la-ni gọi là Văn trì đà-la-ni. Văn có nghĩa là nghe; trì có nghĩa là giữ gìn, đừng cho mất đi, nhớ được; đà-la-ni là tổng trì, tức là duy trì được. Vậy thì Văn trì đà-la-ni là cái khả năng duy trì được, giữ gìn được, bảo vệ được, thực tập được, chia xẻ được những điều mình đã nghe và đã hiểu. Lại có vô số các vị đại Bồ Tát khác đã đạt được cái gọi là Nhạo thuyết vô ngại biện tàiBiện tài tức là cái khả năng diễn tả để có thể chinh phục người khác, tiếng Anh là Eloquence; vô ngại tức là không có cái chướng ngại nào cả.

Như vậy phẩm Phân biệt Công đức này chứa đựng một sự thật, mà khi sự thật đó được trình bày ra, thì có rất nhiều Bồ Tát đã đạt được cái hoa trái của sự tu học, đã đạt được Vô sinh pháp nhẫn, Văn trì đà la ni, và Nhạo thuyết vô ngại biện tài (trang 397).

Trang 407, đoạn chót: Này Bồ Tát Di Lặc, nếu người thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào khi nghe tôi nói về thọ mệnh dài lâu của Như Lai mà sinh ra lòng tin và hiểu, thì người đó là người đang ngồi trên núi Thứu này, đang ngồi bên cạnh tôi trong giờ phút hiện tại này. Đó là công đức của sự thọ trì Pháp Hoa. Nếu được nghe Pháp Hoa từ một người bạn, qua một vị thầy, từ một con chim hót hay tiếng suối reo, hoặc đọc một cuốn kinh mà hiểu và tin được, thấy được, nhận thức được cái tính cách vô sinh, vô diệt của vạn hữu, của Như Lai, thì người đó là người đang ngồi bên cạnh Bụt trên núi Thứu. Vì vậy ta đừng nói rằng và đừng nghĩ rằng ngồi được bên cạnh Bụt trên núi Thứu là chuyện mơ tưởng xa vời, phải lùi lại 2500 năm mới có thể làm được. Chúng tathể đạt được hạnh phúc đó ngay trong giây phút hiện tại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31383)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26259)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27571)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27956)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26751)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31270)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20315)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22999)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30114)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21642)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20320)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22708)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20813)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30379)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28840)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34783)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44264)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35569)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22592)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21412)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20721)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24807)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37985)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19102)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19378)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20906)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29560)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35215)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28869)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32638)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26275)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28978)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43199)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 35001)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 44016)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37950)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21364)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43076)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49055)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39902)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53836)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36861)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40862)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49779)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47382)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27795)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27060)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27258)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24106)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20888)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34350)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22522)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25166)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25906)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22998)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22516)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21785)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21211)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant