Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20. Phẩm Thứ Hai Mươi: Bồ tát Thường Bất Khinh

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11356)
20. Phẩm Thứ Hai Mươi: Bồ tát Thường Bất Khinh

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Hai Mươi: Bồ tát Thường Bất Khinh

Bây giờ chúng ta hãy đi sang phẩm thứ 20, Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh (SadẠparibhutẠ Bodhisattva), trang 453. 
Phái Thiên Thai phân các phẩm của kinh Pháp Hoa ra làm hai môn, Tích môn và Bản môn, và cho rằng 14 phẩm đầu thuộc về Tích môn, và 14 phẩm sau thuộc về Bản môn. 

Khi đọc kinh ta thấy tuy cái ý về Tích môn và Bản môn rất hay, nhưng phân chia như vậy không được ổn lắm. Lý do là đang đọc những phẩm có tính cách Bản môn, chúng ta đi sang những phẩm thấy như không có gì là Bản môn, mà lại có tính cách là Tích môn. Vì vậy tuy ý hay, nhưng chia ra hai phần như vậy thì không được đúng lắm. Do đó muốn dùng hai ý niệm Tích môn Bản môn thì ta phải xếp đặt lại thứ tự các phẩm trong kinh, đưa một số phẩm ra trước và một số phẩm ra sau. 

Theo tôi, việc mà chúng ta có thể làm được là vẫn giữ nguyên văn kinh Pháp Hoa như đã truyền lại, nhưng nên xếp đặt lại vị trí các phẩm, để cho hợp với ý niệm Bản môn và Tích môn hơn. Khi làm vậy, chúng ta phải ghi rõ sự xếp đặt lại này, để nếu có người muốn biết cách sắp đặt thứ tự các phẩm theo truyền thống thì có thể trở về xem bản của thầy Cưu-Ma-La-Thập.

Ngoài ra, tôi nghĩ rằng chia thành hai môn như thế cũng còn có khuyết điểm. Lý do thứ nhất là vì không phải 14 phẩm đầu hoàn toàn diễn bày về Tích môn, và 14 phẩm sau hoàn toàn nói về Bản môn. Lý do thứ hai là mình nên thiết lập thêm một môn thứ ba, thì sự phân chia mới hoàn mỹ. Tôi thấy có một số phẩm nên được đưa vào môn thứ ba gọi là Hạnh môn. Hạnh tức là hành động. Sau khi đã thấy Tích môn như vậy, và Bản môn như vậy rồi, thì chúng ta phải cần được thấy cái phương pháp thực hiện. Cái diệu dụng của Bản môn khi được diễn tả trong Tích môn, là sự hiện hữu của một số các vị Bồ Tát, và các vị này đã làm như thế nào để diễn dịch cái Bản môn ra Tích môn, và đưa người ta từ Tích môn về Bản môn. Những phẩm thuộc về lĩnh vực này, ta có thể xếp vào một môn thứ ba và gọi là Hạnh môn. Đó là những phẩm nói về các vị Bồ Tát lớn như là Bồ Tát Thường Bất Khinh, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát Phổ Hiền.
Trong đạo Bụt chúng ta thường phân biệt một thực tại ra ba khía cạnh, đó là thể, tướng và dụng. Thể tức là bản chất của sự vật, là Bản môn. Ví dụ như bình trà, cái thể của nó là đất sét, nước và lửa. Còn cái tướng của bình trà là tròn, có nắp ở trên, có cái quai và cái vòi. Đó là cái tướng của bình trà. Thể tức là cái bản chất, còn tướng tức là cái hình thái. Sau đó là dụng. Dụng là cái công dụng, bình trà dùng để làm gì? bình trà đóng được vai trò nào? Tất cả mọi pháp đều có ba phần thể, tướng, và dụng đó cả. Ta có thể nói rằng Tích môn là tướng, Bản môn là thể, và môn mà ta thiết lập trong khóa tu này để đóng góp cho Tông Thiên Thai là Hạnh môn, và Hạnh môn thuộc về dụng. Tức là, Tích môn nó như thế, Bản môn nó như thế, làm thế nào để diễn dịch Bản môn thành Tích môn, và để đưa những người trong thế giới Tích môn về tiếp xúc được với Bản môn, đó là công trình hành đạođộ sanh của các vị đại Bồ TátChúng ta nên gom hết các phẩm đó vào một môn thứ ba gọi là Hạnh môn. Gọi là dụng môn cũng được, nhưng Hạnh môn nghe hay hơn, hạnh có nghĩa là action.

Đi vào Hạnh môn, trước hết ta gặp một vị Bồ Tát rất ngộ nghĩnh, tên là Thường Bất Khinh, trang 453. Vị Bồ Tát này vốn là tiền thân của Bụt Thích Ca Mâu Ni. Trong thời gian thị hiện làm Bồ Tát, Ngài đã trải qua những kinh nghiệm rất ngộ nghĩnh, Ngài hành đạo nhưng đôi khi bị người la rầy, xua đuổi, đàm tiếu. Thường Bất Khinh là vị Bồ Tát chỉ chuyên làm một việc thôi, đó là tới với ai, Ngài cũng cung kính nói: Ông hoặc bà là người có giá trị lắm, ông hoặc bà là những vị Bụt sẽ thành, tôi thấy được cái giá trị đó trong ông bà, nên xin đừng có mặc cảm. Đó là cái hạnh của Bồ Tát Thường Bất Khinh. Chúng ta phải học cái hạnh này nếu chúng ta muốn đi theo con đường của các vị Bồ Tát.

Có những người có mặc cảm là họ không giỏi, họ không thành đạt như những người khác. Họ có cái mặc cảm tự ti. Những người như vậy không có hạnh phúc, nhìn người khác thì thấy người ta cao lớn, sang cả, còn nhìn lại mình thì thấy mình nhỏ bé, thấp hèn. Đó là những người cần được sự giúp đỡ. Theo Bồ Tát Thường Bất Khinh thì mình phải tới với họ và nói rằng: Anh đừng có mặc cảm tự ti, tôi thấy nơi anh những hạt giống rất tốt có thể phát hiện và làm anh trở thành một vị đại nhân. Nếu anh nhìn lại và tiếp xúc được với những hạt giống tốt trong anh, thì anh sẽ vượt thắng mặc cảm tự ti.

Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ,
Bất ưng tự khinh như thối khuất,

là hai câu trong Luật Sa di, có nghĩa là kẻ kia đã là bậc trượng phu, tại sao ta lại không được như vậy? ta không nên tự khinh mình, tự coi mình là nhẹ để cứ đi thụt lùi. Đó là một câu nói để tự đánh thức mình dậy. Trong xã hội hiện đại, tâm lý trị liệu cho chúng ta biết rằng có một số người đau khổ, bịnh hoạn về tinh thần, là tại vì cái tự ti mặc cảm, cái mặc cảm tự cho mình không đáng giá bao nhiêu. Các nhà trị liệu có bổn phận làm cho người ta thấy rõ hơn về con người của họ, và gỡ bỏ cái mặc cảm rằng mình là người không có giá trị, là đồ bỏ đi. Đó là việc làm của một vị Bồ Tát. Thành ra khi thấy một người bạn tu hay bạn ngoài đời bị đau khổ vì cái mặc cảm không giỏi, không bằng ai, suốt đời lè tè thấp kém, và cái cảm tưởng đó đã làm cho bạn mình mất hết hạnh phúc, thì mình phải cố gắng giúp người bạn đó gỡ bỏ cái mặc cảm kia đi. Bồ Tát Thường Bất Khinh là người chỉ lo làm một việc đó. Trong đời sống hàng ngày, đôi khi vì bực tức, chúng ta có thể thốt ra những câu nói nó có tính cách thường khinh, nhất là đối với con cái của mình. Làm cha làm mẹ ta hay phạm vào lỗi đó. Một lỗi rất nặng, tại vì những tế bào não bộ của con cái còn non nớt, còn trong sáng mà mình gieo vào những tư tưởng ấy tức là mình làm hại con mình, mình giết đi cái khả năng có hạnh phúc của con mình. Vì vậy làm cha, làm mẹ, làm thầy, ta phải rất cẩn thận. Nếu học trò có mặc cảm, ta phải tìm cách tháo gỡ giùm họ, để họ có thể sống thanh thảnan lạc hơn.

Tôi vẫn thường thực tập hạnh đó, và tiện đây tôi chia xẻ với quí vị một kinh nghiệm: Một hôm có hai anh em nhỏ đến chơi, tôi đưa hai cháu vào xem cái máy mới mua. Đứa em loay hoay sử dụng làm cho máy bị cháy. Có lẽ vì tôi đang bấm một cái nút mà cháu lại cùng một lượt bấm thêm một cái nút khác. Đứa anh hơi giận, bảo: "Sư Ông cho xem máy thôi, tại sao em lại làm vậy! rờ tới cái gì là hư cái đó!" Có lẽ đứa anh đã bị ảnh hưởng của cha mẹ hay của bạn bè, đã từng nghe những câu trách cứ đó trong cuộc sống hàng ngày, nên đã chỉ lặp lại mà không biết cái tầm quan trọng của câu nói đó.

Để giúp đứa em, tôi bèn dẫn cả hai anh em sang xem một cái máy khác, và chỉ cho đứa em sử dụng cái máy mới. Đứa anh vội vàng cản: Sư Ông đừng cho nó đụng tới, nó sẽ làm cháy nữa bây giờ! Thấy rằng đây là lúc để có thể giúp cả hai anh em, tôi bảo: Không sao, Sư Ông tin nó lắm, nó giỏi chứ không dở đâu. Này, con làm đi, bấm nút này trước, thả ra rồi bấm nút này sau, con làm cho cẩn thận. Đứa em thành công và cả hai anh em đều vui mừng. Tôi cũng tùy hỉ theo. Làm như vậy tức là ta đã thực tập hạnh Thường Bất Khinh, xóa tan cái mặc cảm là mình không làm được, chỉ có anh mình mới làm được thôi. Ta chỉ tốn có ba bốn phút mà gỡ được cái mặc cảm của đứa em. Thật ra lúc đó mình cũng hơi ngán, sợ nó sẽ làm hư cái máy thứ hai. Nhưng nếu e ngại nó làm hư cái máy, mình sẽ làm hư con người của nó. Cái tâm của em bé quan trọng hơn cái máy rất nhiều. Chỉ cần có niềm tin vào hạnh Thường Bất Khinh và ba bốn phút là mình có thể giúp em bé gỡ được cái mặc cảm của em bé.

Bồ Tát Thường Bất Khinh chỉ cho mọi người thấy trong họ có khả năng của sự thành đạt hoàn toàn, có hạt giống của Bụt, có khả năng trở thành một bậc toàn giác.

Thông điệp của kinh Pháp Hoa là ai cũng có thể thành Bụt được cả, và Thường Bất Khinh là đại sứ của Bụt và của kinh Pháp Hoa. Làm đại sứ, đôi lúc mình cũng bị bắt làm con tin như ở trong thế giới hiện tạiBồ Tát Thường Bất Khinh cũng vậy. Ngài đem cái thông điệp đó đến cho mọi người, nhưng không phải khi nghe, ai cũng vui mừng, tại vì họ đã có mặc cảm, vì vậy khi nghe thông điệp này, họ tưởng Ngài khinh khi họ, nhạo báng họ, vì vậy mà có khi họ đã dùng gậy đánh đuổi Ngài, có khi họ đã dùng lời thô tục để mắng chửi Ngài. Vì vậy sứ mạng của một Pháp sư không dễ. Ki-tô giáo gọi những vị đó là Sứ đồ. Thường Bất Khinh không tụng kinh, không hành đạo theo thói thường, không cúng lạy, không đi hành hương, không ngồi thiền, Ngài chỉ làm một công việc là khi nào thấy ai thì Ngài đến, cúi xuống làm lễ và trang nghiêm nói rằng, tôi không dám khinh quí vị, quí vị sau này sẽ thành Bụt. Trang 456: Trải qua nhiều năm tháng, thường bị mắng nhiếc như vậy mà Bồ Tát Thường Bất Khinh chẳng sinh lòng giận hờn. Có người lấy gậy, lấy cây, lấy ngói, lấy đá để đánh, để ném nhưng Bồ Tát chạy tránh, đứng xa rồi vẫn to tiếng xướng lên cái sự thật đó, tôi không dám khinh ông đâu, ông sẽ thành Bụt. 

Khi Bồ Tát sắp lâm chung, Ngài nghe trong không trung có tiếng giảng Pháp Hoa của Bụt Oai-Âm-Vương. Bụt Oai-Âm-Vương đã tịch từ lâu nhưng lạ quá, sao bây giờ Bồ Tát lại được nghe rành rẽ hết tất cả các bài kệ kinh Pháp Hoa mà Bụt đã giảng. Điều này rất là đúng, tại vì khi tâm mình đã chín muồi rồi, thì tiếng gió thổi, tiếng chim hót đều diễn bày chân lý Pháp Hoa. Chính chúng ta, đôi khi nằm trên bãi cỏ, đi thiền hành trong vườn, cũng nghe được kinh Pháp Hoa, lúc đó ta biết rằng ta đang có Pháp Hoa tam muội. Khi nghe được kinh Pháp Hoa như vậy thì nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, và ý căn tự nhiên được chuyển hóa, và trở nên thanh tịnh. Bồ Tát Thường Bất Khinh sống thêm hai trăm muôn ức na-do-tha tuổi nữa. Như vậy thì kinh Pháp Hoa là một thứ thuốc trường sanh, uống vào thì sống được rất lâu để giảng truyền chân lý Pháp Hoa. Đúng như vậy, tại vì kinh Pháp Hoa nói ra một sự thật duy nhấttự tính của mình là không sanh và không diệt, vậy thì làm sao mình có thể chết được? Mình luôn luôn còn đó để chia xẻ cái chân lý Pháp Hoa cho tất cả mọi chúng sanh. Lúc bấy giờ những người đã dùng gậy, dùng đao để đánh đuổi Thường Bất Khinh, thấy được cái kết quả của sự hành trì Pháp Hoa nên bắt đầu tin phục.

Bồ Tát Thường Bất Khinh tượng trưng cho hạnh nhẫn nhụcChúng ta liên tưởng đến thầy Phú-Lâu-Na: Thầy cũng đã bị liệng cà chua, trứng thối trong lúc đi giảng, nhưng thầy đã nói rằng, bị liệng cà chua trứng thối, cũng còn may mắn chán. Bồ Tát Thường Bất Khinh có thể là hậu thân hay là tiền thân của thầy Phú-Lâu-Na, và thay vì giảng những kinh khác thì Bồ Tát chỉ giảng về chân lý Pháp Hoa. Chính chúng ta cũng vậy, nếu biết thực tập hạnh nhẫn nhục thì ta cũng là tiền thân hay hậu thân của các Ngài. Các Ngài bất sanh, bất diệt nên lúc nào ta tiếp xúc được với hạnh nguyện của các Ngài, thì các Ngài sống dậy liền trong ta ngay lúc đó.

lý do đó ta nói rằng phẩm thứ hai mươi này thuộc về Hạnh môn, trong đó Bồ Tát Thường Bất Khinh đã đem đến cho chúng sanh một thông điệp, thông điệp của sự trọng thị. Nhìn một vật gì, một người nào với một thái độ rất kính trọng thì gọi là trọng thị (high esteem). Ngược lại là khinh thị. Trọng là nặng, thưa ông thưa bà, ông bà có nhiều kí-lô lắm, thì đó gọi là trọng thị. Ngược lại khi nói ông chẳng có kí-lô nào hết, tức là coi nhẹ người đó, là khinh thị người đó. Con đường của Bồ Tát Thường Bất Khinh là con đường kiên nhẫn và trọng thị. Con người này không có những trang điểm bề ngoài, con người này chỉ mang ở trong lòng một đức tin và một cái thấy. Đó là cái thấy Pháp Hoa, cái thấy rằng mọi người đều là những vị Bụt, đó cũng là cốt tủy của kinh Pháp HoaĐem theo trong trái tim một niềm tin, một cái thấy và lên đường để làm công việc duy nhấttruyền đạt niềm tin và cái thấy đó. Chúng ta nghĩ rằng các nhà trị liệu tâm lý, các nhà hoằng đạo, các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ đều phải học cái tinh túy này của kinh Pháp Hoa. Thực tập con đường của sự trọng thị, của sự kiên nhẫn không khó khăn gì mấy, nhưng qua những hành động như vậy, ta có thể độ đời, làm cho người kia mất đi mặc cảm tự ti của họ.

Chủ nhật tới này ta sẽ học về phẩm thứ 21, phẩm Như Lai thần lực, một phẩm thuộc về Bản môn. Tiếp đó, sang phẩm 22 là phẩm Chúc Lũy, chúng ta lại trở về Tích môn. Đến phẩm 23 nói về Bồ Tát Dược Vương, ta lại đi sang Hạnh môn. Nhận diện được tính chất của một phẩm và sắp phẩm ấy đúng vào môn của nó thì chúng ta đã bắt đầu hiểu được kinh Pháp Hoa. Tại vì Dược Vương cũng là một mẫu người hành động. Bụt là người giác ngộ, và sự giác ngộ được biểu hiện bằng hành động. Hành động đó được biểu hiện bằng nhiều khía cạnh. Bồ Tát Quan Âm là một khía cạnh, Bồ Tát Phổ Hiền là một khía cạnh khác.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19699)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23960)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41218)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19693)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23980)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21746)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23301)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27504)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26570)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33193)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20192)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25770)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31318)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38577)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21437)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44256)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29824)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42199)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22138)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45755)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32109)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23954)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24390)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29271)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33916)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27680)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32132)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21064)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28848)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21579)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22073)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21434)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19497)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19245)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29180)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20617)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28297)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33182)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21374)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21549)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19376)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26393)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24822)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21755)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22383)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29131)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22554)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23516)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21237)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35321)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24546)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant