Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

24. Phẩm Thứ Hai Mươi Bốn: Diệu Âm Bồ Tát

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 12020)
24. Phẩm Thứ Hai Mươi Bốn: Diệu Âm Bồ Tát

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Hai Mươi Bốn: Diệu Âm Bồ Tát

Diệu Âm có nghĩa là âm thanh vi diệu, âm thanh mầu nhiệm. Đây là vị Bồ Tát thứ ba được trình bày trong Hạnh môn. Vị Bồ Tát thứ nhất là Bồ Tát Thường Bất Khinh, vị thứ hai là Bồ Tát Dược VươngBồ Tát Thường Bất Khinh hành trì như một vị Đại sứ của Pháp Hoa, đem một thông điệp duy nhất tới cho mọi loài: Tất cả chúng sanh đều có khả năng tính giác ngộ. Bồ Tát Dược Vương tuy đi một con đường khác nhưng vẫn tiếp nối con đường của Bồ Tát Thường Bất Khinh. Con đường của Bồ Tát Dược Vươngcon đường của tín nguyện, của ân nghĩa. Cái tình nghĩa của Bồ Tát Dược Vương đối với thầy của mình được biểu lộ một cách rất thắm thiết, rõ rệt trong phẩm thứ 23. Tuy nói rằng Bồ Tát Dược Vương đại diện cho con đường của ân nghĩa, của tín nguyện, nhưng đứng về phương diện thực tập thì Bồ Tát Dược Vương đã thực hiện được nhiều công trình lớn lao, tiếp nối được sự nghiệp của Bồ Tát Thường Bất Khinh.

Trước hết, Bồ Tát Dược Vương thực hiện được một tam muội gọi là Hiện Nhất Thiết Sắc Thân, có khả năng thấy mình trong nhiều sắc thân khác nhau, và do đó mình không bị kẹt vào một trong những sắc thân. Kế đến, Bồ Tát thực hiện được một tam muội khác gọi là Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà La Ni, có khả năng hiểu được ngôn ngữ của tất cả mọi loài chúng sanhChúng sanh có nhiều loài và mỗi loài dùng một ngôn ngữ khác nhau, nhưng vì đã thực tập hạnh hiểu biết và lắng nghe, cho nên mình hiểu được ngôn ngữ của từng người, từng loài. Điều này rất là quan trọng.

Sống trong một môi trường xã hội khác, sống trong một môi trường gia đình khác, sống trong một môi trường kinh tế khác, cách diễn tả của mình cũng khác. Vì vậy người có nhận thức sâu sắc về tâm tư của kẻ khác, thì có khả năng hiểu được những ngữ ngôn khác nhau của những con người khác nhau. Vì vậy mà họ không bị kẹt vào hình thức của ngữ ngôn, và họ tiếp nhận được điều mà người kia muốn nói, dầu người kia nói một cách vụng về, nói bằng những danh từ, những ý niệm, những hình ảnh thui chột, thiếu từ hòa. Chúng ta sẽ thấy rằng các vị Bồ Tát trong kinh Pháp Hoa nối tiếp nhau trong việc thực hiện Hạnh môn. Ở Bồ Tát Dược Vương chúng ta thấy có sự tiếp nối của Bồ Tát Thường Bất Khinh. Hôm nay học về Bồ Tát Diệu Âm (Gadgadasvara Bodhisattva), chúng ta sẽ thấy ở Bồ Tát Diệu Âm có sự tiếp nối của Bồ Tát Dược VươngCon đường của ân nghĩa, của tình nghĩa nơi Bồ Tát Dược Vương cũng có thể thấy được ở Bồ Tát Diệu ÂmBồ Tát Diệu Âm cũng đã thực hiện được cái tam muội gọi là Hiện Nhất Thiết Sắc Thân, và Ngài còn đi xa hơn Bồ Tát Dược Vương nữa, nghĩa là Bồ Tát Diệu Âmthể hiện ra rất là nhiều sắc thân để độ đời, và trong Phẩm thứ 24 này thì có một lần Bồ Tát Diệu Âm hiện ra làm vô số hoa sen.
Khoảng giữa trang 495, chúng ta thấy Bồ Tát Diệu Âm cũng thực hiện được tam muội Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn, an trú trong một chánh niệm (tam muội ở đây có nghĩa là chánh niệm) giúp cho Bồ Tát hiểu được những cách nói năng khác nhau của nhiều chúng sanh, để Bồ Tát có thể hiểu được tâm trạng của các chúng sanh đó. Ngữ ngôn ở đây không hẳn là tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Việt, mà ngữ ngôn ở đây là cách diễn tả của mỗi người về cái thao thức, cái khổ đau, cái ước mơ của họ. Vì vậy cho nên chúng ta có thể nói rằng Bồ Tát Diệu Âm tiếp nối con đường của Bồ Tát Dược Vương và Ngài còn đi xa hơn. Nhưng địa bàn hoạt động của Bồ Tát Diệu Âm không phải là cõi ta bà này, Bồ Tát Diệu Âm tới từ một cõi khác. Nghe danh tiếng của Bụt Thích Ca Mâu Ni, cho nên Bồ Tát đã tìm tới để học hỏi, để đảnh lễ, nhưng xuất xứ của Ngài không phải là cõi ta bà, Ngài là một vị khách. Sự có mặt của Bồ Tát Quán Thế Âm mà mình sẽ thấy trong Phẩm Phổ Môn, phẩm thứ 25, thì không giống như vậy, Ngài là người xuất hiệncõi ta bàcõi ta bà là địa bàn hoạt động của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Trang 501 chúng ta thấy rằng ngày xưa, khi Bụt Vân Lôi Âm Vương xuất hiện thì Bồ Tát Diệu Âm đã sử dụng âm nhạc để cúng dường, và có lẽ cũng vì sự kiện đó mà tên của Bồ Tát được gọi là Diệu Âm, tức là âm thanh vi diệuBồ Tát Diệu Âm đã dùng nhiều loại âm nhạc khác nhau để cúng dường Bụt Vân Lôi Âm Vương trong vòng một vạn hai ngàn năm, và đồng thời cũng dâng lên cúng dường 84 ngàn cái bát ăn cơm làm bằng châu báuÂm thanh cũng là một trong những phương tiện để hành đạo. Nhà họa sĩ có thể cúng dường Tam Bảo những màu sắc và nét bút của mình. Nhà kiến trúc có thể cúng dường Tam Bảo những tác phẩm kiến trúc của mình, như là xây tháp, dựng chùa. Nhà thi sĩ có thể cúng dường bằng những vần thơ, những hình ảnh thi ca của mình. Ở đây, Bồ Tát Diệu Âm là một nhạc sư, đã dùng âm thanh vi diệu để cúng dường Bụt, và cố nhiên những bản nhạc cúng dường không phải là những bản nhạc khóc gió, than mây, sầu đau muôn kiếp, mà là những bản nhạc biểu lộ cái giải thoát, cái an lạc của mình.

Ngày xưa khi ca sĩ Hà Thanh cùng đi với chúng tôi trong chuyến hành hương Ấn Độ, tôi có đặt pháp danh cho cô là Ca-Lăng-tần-già (Kalavinka), tên của một con chim hót ở cõi tịnh độ. Khi chọn một pháp danh cho ai, mình phải nghĩ tới khả năng, và hạnh nguyện của người đó. Nếu suốt đời mình ca hát như một con chim Ca-Lăng-Tần-Già để diễn bày diệu âm, nói lên sự giải thoát, sự giác ngộ để cúng dường chư Bụt mười phương, thì đó cũng là một hạnh nguyện, đó cũng là cùng đi một con đường với Bồ Tát Diệu Âm. Thành ra sáng tác những bài nhạc không sầu đau, không nặng nề, có tính cách giải thoát, có tính cách nuôi dưỡng đức tin, đó cũng là cúng dường Bụt, và cúng dường cả những vị Bụt tương lai nữa, tại vì khi hát lên, người nghe cảm thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng, giải thoát. Và như vậy là ta nối tiếp con đường của Bồ Tát Diệu Âm. Nhưng âm nhạc của Bồ Tát Diệu Âm được căn cứ trên cái trí tuệ, trên cái tam muội của Ngài. Trí tuệ đó là khả năng hiểu được lòng người, hiểu được tiếng người, vì vậyâm nhạc ấy có thể đi thẳng vào lòng người nghe, và chuyển hóa được người nghe. Bồ Tát Diệu Âm đã báo hiệu cho sự có mặt của Bồ Tát Quán ÂmBồ Tát Diệu Âm cũng có khả năng thị hiện ra những sắc thân khác nhau để có thể cứu độ mọi loài. Và cái khả năng biến hiện ra nhiều sắc thân để cứu độ chúng sanh, được căn cứ trên một tam muội gọi là tam muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19723)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23975)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41228)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19708)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24011)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23323)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27514)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26580)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29330)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33217)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20212)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25794)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20934)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31338)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38597)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21454)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44285)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29841)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42232)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22148)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45791)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32131)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23976)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24402)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29290)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33934)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27695)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32162)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21080)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28862)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21604)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28096)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22086)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21454)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19523)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19486)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19846)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19270)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29210)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20632)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28312)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23656)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31859)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21399)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39644)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21571)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19388)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26417)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24841)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22403)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29151)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22568)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20479)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23540)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35350)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24557)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant