Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Phẩm Thứ Mười Lăm: Tùng địa dũng xuất

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11437)
15. Phẩm Thứ Mười Lăm: Tùng địa dũng xuất

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Mười Lăm: Tùng địa dũng xuất

Chúng ta hãy đi sang phẩm 15, phẩm Tùng Địa Dũng Xuất, trang 365. Phẩm này cũng thuộc về thế giới của Bản môn và đáng lý phải đi sau sát phẩm Hiện Bảo Tháp. Trong phẩm này, chúng ta bắt đầu thấy được cái tính cách bất sinh bất diệt của Bụt, cái tính chất vĩnh cửu thường hằng của Bụt. Bụt của tự tính không còn nằm trong khung không gianthời gian nữa.

Lúc bấy giờ có rất nhiều vị Bồ Tát lớn đã đến từ các tinh cầu khác, đứng dậy chắp tay làm lễ đức Thế Tôn và bạch rằng: Bây giờ chúng con xin ở lại đây để sau khi Bụt diệt độ thì chúng con sẽ tiếp tục hành trì kinh Pháp Hoa, giúp Bụt làm công việc độ thoát chúng sanh trong cõi ta bà này. Bụt mỉm cười nói: Xin cám ơn, quí vị khỏi phải nhọc lòng làm việc ấy, vì ở cõi ta bà này đã có đủ người để làm chuyện đó rồi. Quí vị ở quốc độ nào xin cứ về nơi ấy để tiếp tục hành đạo. Bụt vừa nói xong thì cõi ta bà rúng động, mặt đất nứt ra và từ dưới đất trồi lên vô số, vô lượng, vô biên các vị đại Bồ Tát.

Hình ảnh này cũng giống như Hội thủy tiên ở xóm Thượng. Giờ này, đi ra Pháp Thân tạng ta sẽ không thấy có gì cả, nhưng đầu tháng ba mỗi năm, ra lại nơi đó, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên khi thấy hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn hoa thủy tiên (hoa daffodil) ở dưới đất trồi lên, vàng rực. Phẩm này nói rằng các vị Bồ Tát xuất hiện từ dưới đất lên cũng vàng rực như vậy. Thế nên lần đầu tiên thấy hoa thủy tiên mọc lên hàng trăm ngàn đóa như vậy, tôi mới đặt tên khu ấy là Pháp Thân tạng, tức là kho tàng của Pháp Thân.

Tư tưởng này trong kinh Pháp Hoa gọi là thị hiện, tức là bày đặt ra như vậy. Thị hiện đản sanh, thị hiện thành đạo, thị hiện Niết Bàn, và đây là thị hiện Tùng địa dũng xuất. Một hôm đi thiền hành ở xóm Thượng, tôi cũng đã có một kinh nghiệm tương tự. Cái thấy đó có thể đã phát xuất từ kinh Pháp Hoa mà tôi đã được học từ hồi còn nhỏ. Đang đi thiền hành, đột nhiên tôi thấy mình sắp dẫm lên một tấm lá vàng. Mùa Thu lá vàng rất đẹp. Thấy tờ lá vàng đẹp quá, mình không nỡ dẫm lên. Nhưng sự ngần ngừ đó chỉ xảy ra trong khoảng một giây đồng hồ thôi, rồi tôi mỉm cười và nghĩ rằng, tờ lá này đã thị hiện vàng, thị hiện rơi. Trên bình diện Tích môn thì tờ lá này đã có lúc sinh ra trên cành như là một tờ lá non, đã đeo bám vào cành cây trong vòng mấy tháng, khi mùa Thu đến thì đổi sang màu vàng, và một hôm nào đó khi gió lạnh thổi qua thì nó rơi xuống. Đứng trên phương diện Tích môn thì ta thấy tờ lá đó có sinh ra, có lớn lên, có đổi màu, và có rụng xuống. Nhưng nếu quán chiếu, và an trú trong định Pháp Hoa, mình sẽ thấy tờ lá này nó cũng chỉ giả vờ sinh ra, có mặt, rồi giả vờ chết đi mà thôi. Nếu nhìn sâu được vào lý duyên sinh vô ngã, ta sẽ thấy bản chất của tờ lá này là vô sinh bất diệt, rằng tờ lá sẽ lại thị hiện đản sanh trên cành cây, và đối với mình, chiếc lá đang chơi trò chơi đuổi bắt, đi trốn đi tìm.

Mình với cha mẹ của mình cũng vậy. Chúng ta đều đang đi chơi trò chơi trốn tìm với nhau. Mình tưởng mẹ mình mất rồi, không còn nữa, ngờ đâu đó chỉ là chuyện giả đò, một ngày nào đó, đủ duyên, mẹ mình sẽ xuất hiện lại dưới hình tướng này hay hình tướng khác, và nếu có đủ tuệ giác, mình có thể nhận ra được mẹ mình. Vì vậy không phải chỉ có Bụt mới thị hiện đản sanh và nhập Niết Bàn, mà mẹ mình cũng thị hiện đản sanh và nhập Niết Bàn, và chính mình cũng thị hiện đản sanh và nhập Niết BànVì vậy người mình thương, mình phải nhìn cho kỹ. Người mình thương có thể là Bụt, và khi Bụt mất, mình có thể khóc. Người mình thương cũng có thể là thầy, là cha, là mẹ, là con, hay là em của mình, và khi người đó mất đi, mình khóc. Mình khóc tại mình nghĩ rằng người đó đã chết thật. Bản chất của người mình thương cũng là vô sinh bất diệt. Tờ lá vàng kia cũng có thị hiện đản sanh, thị hiện Niết Bàn. Do đó nếu tiếp xúc được với Bản môn thì mình sẽ mỉm cười với tờ lá vàng, cũng như mình có thể mỉm cười trước những cái mà ta gọi là biến cố của cuộc đời. Cái tư tưởng thị hiện Pratiharia trong đạo Bụt là như vậy, hiển hiện ra như vậy thôi, đóng kịch ra như vậy thôi, giả vờ ra như vậy thôi. Đó là đứng về phương diện tướng, nhưng đứng về phương diện thể tánh thì tất cả mọi pháp đều không sanh, không diệt.

Khi hàng triệu vị Bồ Tát thân đẹp như vàng ròng, từ dưới đất trồi lên, an trú trong hư không, họ dùng những âm thanh rất vi diệu để ca ngợi Bụt và sự ca ngợi đó kéo dài đến năm mươi tỉ kiếp. Đây là nói về không gianthời gian ở trong Bản môn, một giây phút chứa đựng cả thiên thâu, một giây phút chứa đựng được cả ngàn đời. Thời gian năm mươi tỉ kiếp trong Bản môn mà các vị Bồ Tát dùng để xuất hiệnca ngợi Bụt, là sự diễn bày của một hiện tượng xảy ra trong pháp giới Bản môn. Trong thế giới Tích môn, thế giới có một có nhiều, thì sự kiện này chỉ kéo dài nhiều lắm là nửa ngày.

Lúc thấy các vị Bồ Tátđại Bồ Tát xuất hiện nhiều như vậy, đại chúng mới hỏi Bụt: Bạch đức Thế Tôn, các vị Bồ Tát đó ở đâu mà tới đông quá như vậy? Bụt nói rằng họ là học trò của tôi. Mọi người rất lấy làm lạ, và trong số những người ngạc nhiên đó có một vị Bồ Tát lớn, Bồ Tát Di LặcĐại chúng sanh lòng nghi hoặc, họ vẫn không hiểu, nên hỏi tiếp: Bạch đức Thế Tôn, tại sao Thế Tôn vừa xuất hiện trên cõi đời mới có bốn mươi mấy năm, mà Ngài đã giáo hóa được vô lượng vô biên đệ tử như vậy? chúng con không thể nào hiểu được. Như vậy, con mắt của thánh chúng vẫn còn là con mắt của Tích môn. Ví dụ có một người trẻ chừng 30 tuổi, mắt rất sáng, tóc rất đen, thân thể rất tráng kiện. Người đó chỉ vào một ông già 85 tuổi, đầu tóc bạc phơ, răng rụng gần hết và nói, người này là con của tôi đó, thì không ai có thể tin! Cũng vậy, đức Thế Tôn thành đạo và mới có khoảng 40 năm giáo hóa, làm sao lại giáo hóa được một số lượng khổng lồ, vô lượng vô biên đệ tử như vậy, thật không thể nào tin được! Đó là thắc mắc của những người đang vướng vào Tích môn.
Câu hỏi đó sẽ được trả lời trong phẩm kế tiếp, Phẩm Như Lai thọ lượng, phẩm 16. Trong phẩm đó chúng ta sẽ biết được tuổi thật của Bụt.

Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non? 

Phẩm thứ 16 sẽ cho chúng ta biết Bụt sống được bao nhiêu tuổi, thọ lượng của Bụt là bao nhiêu, vì vậy mà ta gọi phẩm này là Như Lai Thọ Lượng, phẩm nói về tuổi thọ của Bụt.

Một điều đáng nhớ là trong phẩm thứ 15, Tùng địa dũng xuất, là Bụt cho chúng ta thấy rằng Bụt tồn tại trong thời gian vô tận, và trong Phẩm 11, Hiện Bảo tháp, Bụt cũng chỉ cho ta thấy Bụt tồn tại trong không gian vô biên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19718)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23975)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41228)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19706)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24011)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23321)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27514)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26580)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29328)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33213)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20212)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25793)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20929)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31336)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38592)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21451)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44283)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29839)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42228)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22148)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45791)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32130)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23976)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24402)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33934)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27694)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32158)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21077)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28861)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21602)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28095)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22086)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21450)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19520)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19484)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19846)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19268)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20632)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28311)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23656)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31857)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21394)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39639)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21568)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19388)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26416)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24841)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22401)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29149)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22565)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20478)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23540)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21249)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35347)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24557)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant