Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Phẩm Tư Duy

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9337)
1. Phẩm Tư Duy

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Tư Duy, thứ 1

Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán, đã hết các lậu hoặc, không còn phiền não, đều được tự tại, tâm khéo giải thoát, huệ khéo giải thoát, hàng phục tất cả, giống như rồng lớn, việc làm đã xong, các hạnh đầy đủ, xả bỏ các trọng trách, không còn sanh đời sau, hành hạnh bình đẳng, đã đạt được sự lợi ích của pháp chân thật, an trụ chánh pháp, đạt đến bờ giác, nhưng chỉ trừ trưởng lão A Nan

Bấy giờ, có năm trăm vị tỳ kheo, sáng sớm từ các nơi khác, đến chỗ của Phật, cung kính chấp tay, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Khi ấy, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên sau khi kiết hạ an cư trong thành Xá Vệ xong, cũng đi cùng với năm trăm vị tỳ kheo, thứ lớp du hành khất thực qua các làng xóm thành ấp rồi đến thành Vương Xá, vào tịnh xá Trúc Lâm, đến chỗ của Phật, cung kính đảnh lễ Phật xong, ngồi sang một bên. 

Lúc đó, đức Thế Tôn hiện thần lực, phóng ánh hào quang lớn, khiến tất cả chư tăng ở các thành ấp xóm làng khác đều đến vân tập tại thành Vương Xá, vào tịnh xá Trúc Lâm, đến nơi Phật, cung kính chấp tay đảnh lễ, rồi ngồi sang một bên. 

Khi ấy, trăm ngàn chư tỳ kheo ở xứ Ca Lan Ðà cũng y theo hào quang Phật mà đến nơi Phật, cung kính đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Lại cũng có tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề cùng với 20.000 tỳ kheo ni, thừa hào quang Phật, đều đến vân tập tại tịnh xá Trúc Lâm, nơi Phật trú, đồng cung kính chấp tay, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Lúc đó, trong thành Vương Xá có ông cư sĩ tên là Hiền Hộ đứng đầu trong các cư sĩ, cùng với năm trăm cư sĩ thọ trì năm giới, đầy đủ oai nghi của đại Bồ Tát, đã lâu trụ trong hạnh vô thượng chánh đẳng chánh giác,y theo lực của bổn nguyện, thường theo đức Thế Tôn, vui nghe chánh pháp, hằng chuyên cần tinh tấn, để tu viên mãn tất cả pháp trợ đạo, vào buổi sáng sớm, thừa oai thần của Phật từ nơi của họ, vào thành Vương Xá, đến tịnh xá Trúc Lâm nơi Phật ở, cung kính chấp tay, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Bấy giờ, trong thành lớn Tỳ Xá Ly có một người dòng Ly Xa, tên là Bảo Sanh, sám sớm dẫn 28.000 người Ly Xa, thừa lực oai thần của Phật, từ nơi của họ, đều vào thành Vương Xá, đến tịnh xá Trúc Lâm nơi Phật ở, cung kính chấp tay, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Trong thành Chiêm Ba có một công tử, tên là Tinh Tạng dẫn 28.000 ngàn công tử vào buổi sáng sớm thừa lực oai thần của Phật, vào tịnh xá Trúc Lâm, nơi Phật ở, cung kính chấp tay, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Lại có một người Ma Na Bà, tên là Na La Ðạt Ða, vào buổi sáng sớm dẫn 28.000 người từ chỗ của họ, vào thành Vương Xá, đến tịnh xá Trúc Lâm, nơi Phật ở, cung kính chấp tay, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Trong xứ Xá Vệtrưởng giả Ðại Thiện Thương Chủ, trưởng giả Cấp Cô Ðộc vào buổi sáng sớm dẫn 28.000 người, từ xứ Xá Vệ, đến thành Vương Xá, vào tịnh xá Trúc Lâm nơi Phật ở, cung kính chấp tay, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Trong thành Vương Xátrưởng giả Thủy Thiên, dẫn 28.000 người từ nơi đó, đến tịnh xá Trúc Lâm nơi Phật ở, cung kính chấp tay, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Vua A Xà Thế con hoàng hậu Vi Ðề Hy của xứ Ma Kiệt Ðà vào buổi sáng sớm, dẫn trăm ngàn quyến thuộc đến tịnh xá Trúc Lâm nơi Phật ở, cung kính chấp tay, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Lại có Tứ Ðại Thiên Vương và trời Ðế Thích cùng tất cả chư thiêncõi trời Dục Giới, và vô số trăm ngàn ức na do tha chư thiên quyến thuộc vào buổi sáng sớm đến tịnh xá Trúc Lâm nơi Phật ở, đảnh lễ chân Phật rồi ngồi sang một bên. 

Lại có vua trời Ðại Phạm chủ cõi Ta Bà cùng với vô số trăm ngàn ức na do tha chư thiên quyến thuộc vào buổi sáng sớm vào tịnh xá Trúc Lâm nơi Phật ở, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Lại có vua trời Ðại Tự Tại cùng với trăm ngàn chư thiên quyến thuộccõi trời Tịnh Cư, vào buổi sáng sớm, đến tịnh xá Trúc Lâm nơi Phật ở, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Lại có bốn vị vua A Tu La dẫn vô số trăm ngàn quyến thuộc A Tu La, vào buổi sáng sớm, đến tịnh xá Trúc Lâm, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Lại có vua rồng Nan Ðà và Bạt Nan Ðà cùng với trăm ngàn vô số quyến thuộc loài rồng, vào buổi sáng sớm đến tịnh xá Trúc Lâm nơi Phật ở, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Lại có vua rồng Bà Già La, A Na Ba Ðạt Ða, Ma Na Tư, Y Bạt La, cùng với trăm ngàn vô số quyến thuộc loài rồng, vào buổi sáng sớm, đến tịnh xá Trúc Lâm, nơi Phật ở, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên. 

Bấy giờ, trong ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả chư tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và tất cả hàng trời rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cho đến hàng phi nhân cùng các quốc vương tin đức Như Lai, vì muốn nghe pháp, đồng tới tịnh xá Trúc Lâm nơi Phật ở, đảnh lễ chân Phật, mỗi mỗi tự ngồi sang một bên. 

Lúc đó, tịnh xá Trúc Lâm trong vườn Ca Lan Ðà rộng lớn, dung chứa đầy hết tất cả đại chúng trong ba ngàn đại thiên thế giới mà không còn chỗ dư. Như thế, từ trên cõi trời Hữu Ðảnh xuống đến Phạm cung, tất cả chư thiênthần thông oai đức lớn, cho đến tất cả loài rồng, Dạ Xoa, A Tu La, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, phi nhân đều đến vân tập

Khi ấy, đại Bồ Tát Hiền Hộ từ chỗ ngồi đứng dậy, trạch bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chấp tay bạch Phật

-Bạch đức Thế Tôn! Nay tâm con có những điều nghi ngờ, muốn thỉnh hỏi đức Thế Tôn. Không biết Ngài cho phép chăng? 

Lúc đó, đức Phật bảo Hiền Hộ: 

-Này Hiền Hộ! Ðức Như Lai sẽ tùy theo những điều nghi ngờ của ông mà trả lời để ông vui lòng

Ðược đức Phật hứa khả, Bồ Tát Hiền Hộ bạch rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! 

1/ Ðại Bồ Tát thành tựu những tam muội nào mà hay đạt được các tụ công đức lớn? 

2/ Làm sao nhập vào biển lớn Ða Văn để đạt được tạng trí huệ, hỏi đáp không còn nghi ngờ? 

3/ Làm sao chứng được giới tụ Vô Ý (tác), chẳng mất sự thành tựu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác mà không thối tâm? 

4/ Làm sao đắc được tâm chẳng khởi ngu si, tà kiến, chấp không? 

5/ Làm sao đắc được trí túc mạng, biết hết tất cả sự việc trong đời quá khứ và tương lai? 
6/ Làm sao mãi mãi được gặp chư Phật Thế Tôn, nghe giảng chánh pháp, ngay cả trong giấc mộng? 

7/ Làm sao đắc được sắc thân đoan chánh thù thắng vi diệu, đầy đủ oai nghi, chúng sanh thích nhìn? 

8/ Làm sao được sanh vào gia đình quyền quý cao sang, khiến người nhìn cung kính? 

9/ Làm sao có được gia đình cha mẹ, anh em, bà con quyến thuộc và các

bậc tri thức thường sống gần nhau mãi không xa cách? 

10/ Làm sao có tài hùng biện bác học đa văn, sở hành kỳ diệu, và mãi mãi không bao giờ mất tâm Bồ Ðề vô thượng chánh đẳng chánh giác? 

11/ Làm sao đắc được chánh niệm, chánh hạnh, tiết độ, chẳng chuyển tâm biết đủ? 

12/ Làm sao đắc được chánh trí khiêm cung, hàng phục ngã mạn? 

13/ Làm sao thường khởi tâm tàm quý, xa lìa những việc khiến hỗ thẹn? 

14/ Làm sao tinh tấn mãnh liệt, xa rời sự giãi đãi làm biếng?

15/ Làm sao đắc được tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, bình đẳng an lạc?

16/ Làm sao khi được nghe pháp Chân Không, Vô Tướng, Vô Nguyện thâm sâu, hoàn toàn không sợ hãi thối chuyển?

17/ Làm sao không thích ỷ lại, nhiếp thọ chánh pháp? 

18/ Làm sao có được trí huệ thông đạt, sáng suốt hiểu rõ tất cả đều vô vi bình đẳng? 

19/ Làm sao tùy ý được sanh vào tất cả cõi Phật? 

20/ Làm sao không bị tất cả ngoại đạo lôi kéo chuyển tâm

21/ Làm sao như biển cả, khéo dung nạp tất cả câu hỏi nghi vấn khó khăn vô cùng tận? 
22/ Làm sao đắc được pháp trong trắng thanh tịnh như trăng tròn? 

23/ Làm sao đắc được trí huệ như ánh bình minh mọc lên phá tan màn vô minh tăm tối? 

24/ Làm sao đắc được trí huệ như ngọn đuốc lớn, hào quang chiếu cùng khắp? 

25/ Làm sao đắc được tự tánh rộng như hư không, chẳng có chướng ngại?

26/ Làm sao đến chỗ không trụ trước, tâm như hư không?

27/ Làm sao đắc được tâm như kim cang, thấu triệt thông đạt tất cả pháp?

28/ Làm sao để tâm vững như núi Tu Di, không thể chuyển động?

29/ Làm sao tâm như then cửa, giữ lại tất cả chánh pháp?

30/ Làm sao như loài mèo chó, thành tựu tâm nghiệp?

31/ Làm sao đạt được sự vô vi trong tất cả pháp?

32/ Làm sao tâm được tự tại như loài chim bay tùy ý?

33/ Làm sao đập vỡ ngã mạn như người Chiên Ðà La?

34/ Làm sao được sống trong A Lan Nhã, như loài khỉ vượn thích ở thành ấp, mà tất cả người xuất gia hay tại gia không thể làm tâm loạn động?

35/ Làm sao thống lãnh đại chúng, dạy đạo khai thị?

36/ Làm sao chẳng thích sanh trong tất cả chúng sanh, chẳng động nơi tất cả chúng sanh?

37/ Làm sao chẳng vì tất cả ngoại đạo, hàng phục sự não loạn mê hoặc của thiên ma?
38/ Làm sao được tài hùng biện, mà đối với tất cả pháp đều quyết định hiểu rõ?

39/ Làm sao ngay trong tất cả Phật pháp không tùy theo hạnh của người?

40/ Làm sao có được tín tâm kiên cố lớn, không gì phá hoại được?

41/ Làm sao có được tín lực đại từ bi, không gì lay chuyển được?

42/ Làm sao thâm nhập niềm tin vô sở hành?

43/ Làm sao có được niềm tin tươi mát, tâm thường vui vẻ trong tất cả pháp?

44/ Làm sao có được niềm tin tối thắng, cúng dường hầu hạ các vị thiện tri thức mà không thấy chán?

45/ Làm sao có được các loại nhập tín, trồng các căn lành?

46/ Làm sao có được niềm tin chân chánh vi diệu, tăng trưởng hạnh không giả dối?

47/ Làm sao có được niềm tin hoan hỷ thanh tịnh, trừ tất cả sự ganh ghét?

48/ Làm sao có được niềm tin thanh tịnh, đắc được hào quang Nhất Thiết Chủng Trí?

49/ Làm sao có được niềm tin thanh tịnh vui vẻ, diệt trừ tất cả sự che chướng xấu xa?

50/ Làm sao có được trí huệ niềm tin hoan hỷ, nhiếp thọ cảnh giới của chư Phật?

51/ Làm sao có được hạnh tín trang nghiêm thù thắng hơn tất cả anh lạc trang nghiêmthế gian, thành tựu thanh tịnh cõi Phật?

52/ Làm sao đắc được giới hạnh thanh tịnh, mãi mãi diệt hết tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật?

53/ Làm sao trang nghiêm đại nguyện, tất cả việc làm đều rốt ráo?

54/ Làm sao trở thành bậc lãnh đạo của tất cả chúng sanh, thích hành các pháp lành?

55/ Làm sao không có tâm chán chường mệt mỏi vì muốn dạy đạo tất cả hạnh Ba La Mật cho chư Bồ Tát?

56/ Làm sao được chẳng thối chuyển, thường cầu tất cả Phật pháp?

57/ Làm sao không bao giờ bị tất cả ngoại đạo tà sư phá hoại?

58/ Làm sao tin tưởng thâm sâu tất cả Phật pháp, không rời niệm này thường thấy chư Phật?

59/ Làm sao có tâm tưởng như người cha, nhận lãnh trách nhiệm chấn hưng Phật pháp?

60/ Làm sao được Phật lực gia trì, thường sanh trong hào quang tất cả Phật pháp? 

61/ Làm sao được không có chướng ngại, thấy rõ tất cả Phật pháp trước mặt?

62/ Làm sao được như người huyễn, nơi tất cả pháp, không có suy tư nghĩ nhớ?

63/ Làm sao được như người huyễn hóa, quán tất cả pháp không có sanh diệt?

64/ Làm sao như trong mộng, quán ba cõi không có đến đi?

65/ Làm sao như gương sáng, chiếu hiện tất cả cõi?

66/ Làm sao như âm vang, nơi tất cả pháp vô vi, chẳng làm, vì từ nhân duyên sanh?

67/ Làm sao như hình ảnh, đối với tất cả chúng sanh tự không có tâm giữ bỏ?

68/ Làm sao được tánh Không, chẳng có sở hữu, xa rời vọng tưởng tất cả chư Phật?

69/ Làm sao được vô tướng, quán tất cả pháp không có hai?

70/ Làm sao đến bờ mé pháp giới, tâm Bồ Ðề không có giới hạn?

71/ Làm sao tâm không khởi chấp trước, không phân biệt tánh của tất cả thế giới?

72/ Làm sao có được hạnh vô ngại, đi khắp tất cả cõi Phật?

73/ Làm sao đắc được trí huệ tổng trì, nghe một biết hàng muôn, khéo thông suốt phân biệt tất cả văn tự lời nói?

74/ Làm sao được tất cả chư Phật hộ niệm, được tất cả Phật lực gia trì?

75/ Làm sao như các vị pháp sư, khéo biết tất cả Phật pháp?

76/ Làm sao phát tiếng hùng dũng chẳng khiếp sợ, như bước chân của vua trâu lớn, vua sư tử lớn?

77/ Làm sao được sự vô úy, khiến tất cả thế gian đều hoan hỷ?

78/ Làm sao không có nghi ngờ mê hoặc; đối với tất cả chư Phật, tâm bình đẳng không hai?

79/ Làm sao thông đạt như như, diệt trừ nghi ngờ mê hoặc, chẳng chấp vào các pháp?

80/ Làm sao nhập thâm sâu vào pháp giới, hay khéo giải thích nghĩa lý của các câu hỏi?

81/ Làm sao mang lại lợi ích cho mình và người, đầy đủ tâm đại bi?

82/ Làm sao diệt trừ tâm ỷ lại làm biếng, thường thích thuyết pháp?

83/ Làm sao trụ như chánh pháp, chẳng bỏ tất cả chúng sanh?

84/ Làm sao tránh tâm cong vạy, thường giữ hạnh chất trực ngay thẳng?

85/ Làm sao như con mắt sáng như ngọn đuốc cho tất cả thế gian?

86/ Làm sao không thể bị khinh miệt, hơn hẳn tất cả trong ba cõi?

87/ Làm sao tránh tranh luận, nói và hành trì y như giáo pháp?

88/ Làm sao tránh gian nan, hành hạnh chẳng chấp trước?

89/ Làm sao biết tận bờ mé, chẳng phân biệt các pháp?

90/ Làm sao có trí huệ, thuyết tất cả ngôn ngữ, khiến chúng sanh an trụ nơi pháp Ðại Thừa?

91/ Làm sao đến nơi không còn sợ hãi, xa rời sự khủng bố, mãi mãi chẳng còn một chút lo sợ?

92/ Làm sao biết được cách thuyết pháp phương tiện của chư Phật, khéo hiểu tất cả kinh điển?

93/ Làm sao sanh vào thế gian mà chẳng vô ích, thường vào nơi tất cả chúng sanh mà được lợi ích?

94/ Làm sao là bậc Nhất Thiết Trí đứng đầu, kham thọ nhận sự cúng dường của tất cả chúng sanh, có danh đức lớn?

95/ Làm sao được vô biên công đức đáng tán thán, làm ruộng phước cho tất cả chúng sanh?

96/ Làm sao vui mừng dõng dước, thường ở dưới tòa sư tử của đức Như Lai?

97/ Làm sao trở thành bậc biện tài thù thắng tối thượng, hay hỏi tất cả Phật pháp?

98/ Làm sao được biện tài không khiếp nhược, chẳng sợ sệt giữa đại chúng?

99/ Làm sao được tất cả biện tài luận nghị như vua sư tử, hàng phục tất cả ngoại đạo, nhiếp thọ các luận sư khác?

100/ Làm sao chẳng hoại thệ nguyện trang nghiêm, vì muốn dẹp trừ tất cả bè đảng tà ngụy?

101/ Làm sao được thiện xảo thuyết pháp, thường ngồi trên tòa sư tử, được tất cả chư Phật ấn chứng?

102/ Làm sao xa rời tất cả ngôn ngữ vô nghĩathế gian, vì muốn thông đạt tất cả chánh pháp?

103/ Làm sao khởi tâm mến mộ chư Phật thâm sâu, vì đối với chư Như Lai sanh xứ hạnh.
104/ Làm sao mến vui chánh pháp chân thật, biết chư Như Lai chẳng sanh?

105/ Làm sao tránh ngã mạn ỷ lại, khéo hầu hạ các bậc thiện tri thức?

106/ Làm sao chẳng nhiễm trước, đi khắp tất cả cõi?

107/ Làm sao hạnh và nguyện được đầy đủ để giáo hóa tất cả chúng sanh?

108/ Làm sao được các tướng như ngọc san hô?

109/ Làm sao tâm như hư không, chẳng chấp tướng của tất cả pháp?

110/ Làm sao như chư Bồ Tát, chẳng dứt hạt giống Phật?

111/ Làm sao được hạnh hành trì không ngừng nghỉ hạnh Bồ Tát, chẳng xa rời Ðại Thừa?

112/ Làm sao mặc áo giáp lớn, quyết định trú trong giới pháp rộng lớn của chư Phật?

113/ Làm sao được chư Phật quán đảnh, trụ trong lực mười địa của chư Như Lai?

114/ Làm sao có được tất cả tâm tưởng, thông đạt tất cả pháp hành?

115/ Làm sao được trí biết tất cả toán số phương tiện thiện xảo?

116/ Làm sao khéo biết tất cả việc thành hoại, xa rời tất cả hạnh chướng ngại?

117/ Làm sao được hạnh chẳng chấp trước tất cả, chẳng giữ, chẳng bỏ?

118/ Làm sao trở thành đại thí chủ của tất cả chúng sanh, hay bố thí mà không hối hận?

119/ Làm sao nhập vào biển Phật pháp, hay bố thí tạng pháp bảo tối thượng?

120/ Làm sao có tất cả hạnh của thế gian, hay xả các tướng thế gian?

121/ Làm sao có thần thông rộng lớn, tùy thuận thần thông của chư Phật, đầy sự hoan hỷ.

122/ Làm sao đắc được hạnh trong một sát na, liền đến trước tất cả chư Phật?

123/ Làm sao trụ ở cõi Phật, thấy tất cả mười phương chư Phật, được nghe chánh pháp, cúng dường chư tăng. Dù tuy chưa chứng sáu thần thông xuất thế, hay năm thần thôngthế gian, chưa xả bỏ thân ở cõi đời, chưa sanh qua các cõi Phật, mà ở cõi này thấy chư Phật ở các cõi khác, tất được nghe các ngài thuyết chánh pháp; nghe tất cả những lời đó rồi mà hành theo đó 

Bạch đức Thế Tôn! Nay đây giống như thánh giả A Nan, sau khi trực tiếp nghe Phật thuyết pháp, tất thọ trì như lời nói mà hành. Chư Bồ Tát cũng vậy, tuy thân ở đây, không có đến cõi Phật mà hay nhìn khắp chư Phật Thế Tôn; nghe pháp xong liền y theo đó mà hành trì. Từ đây về sau sanh vào bất cứ cõi nào, đều không xa rời chư Phật Thế Tôn, thường nghe chánh pháp, cho đến trong giấc mộng cũng như thế.

Khi ấy, đức Thế Tôn bảo đại Bồ Tát Hiền Hộ

-Lành thay, lành thay, này Hiền Hộ! Nay ông khéo thỉnh hỏi đức Như Lai diệu nghĩa như thế, ví muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh trong thế gian, vì muốn mang lại niềm an lạc cho các chúng sanh, vì thương xót hàng trời người, và vì nhiếp thọ chư Bồ Tát trong tương lai. 

Này Hiền Hộ! Xưa kia ông đã từng cúng dường vô số chư Phật, trồng các căn lành, nghe chánh pháp, thọ trì chánh pháp, mến mộ chánh pháp, cung kính chánh pháp. Nay ông lại dùng hạnh Ma Ha Ca Diếp giáo hóa, ít muốn biết đủ, thường vui chốn A Lan Nhã thanh nhàn, hoặc ở trong nghĩa địa, hoặc ở dưới cội cây, ngồi trên mặt đất, thường ngồi chẳng nằm, vừa ngồi chẳng động đậy, thọ pháp khất thực, ăn rồi không thọ nữa, hoặc một lần ngồi một lần ăn, hoặc chỉ có một tấm bồ đoàn, chỉ mặc ba y cùng y phấn tảo vá rách, khen ngợi hạnh đầu đà, cần thỉnh chư Bồ Tát, dạy Bồ Tát hạnh pháp, khiến chư Bồ Tát hoan hỷ, quở trách chư Bồ Tát, giáo hóa khai thị chư Bồ Tát, giúp chư Bồ Tát được thành tựu, hay mang lại lợi ích lớn, hành đại từ bi, tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh, đều được tự tại đến nơi bờ giác, tùy ý được thấy tất cả chư Phật, phát đại nguyện rộng lớn, hành hạnh vi diệu thâm sâu, vui làm bậc lương đống cho Bồ Ðề Nhất Thiết Trí, hay khéo tùy thuận chủng tánh Như Lai, phát tâm Bồ Ðề giống như Kim Cang, thông đạt tâm niệm của tất cả chúng sanh trên thế gian, hạnh vi diệu rộng lớn không thể tính biết không thể nói hết, thường ở trước mặt tất cả chư Phật. 

Này Hiền Hộ! Ta chỉ nói ít phần công đức đó của ông. 

Này Hiền Hộ! Nay có tam muội của chư Bồ Tát tên là Tam Muội Suy Tư Chư Phật Hiện Tiền. Nếu có Bồ Tát tu tập đầy đủ tam muội này thì sẽ đạt được những công đức đã hỏi bên trên. 

Hiền Hộ, ông nên biết rằng lại có vô lượng vô biên công đức thù thắng tối thượng không thể nói hết. 

Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Hộ lại bạch Phật rằng:

-Lành thay, bạch đức Thế Tôn! Cúi xin Ngài thuyết pháp Bồ Tát Niệm Tam Muội Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền, để giúp cho hàng trời người, Ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn, rồng, Dạ Xoa, Khẩn Na La, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Ma Hầu La Già, phi phân được nhiều lợi ích, thọ nhiều niềm an lạc, cũng khiến cho đời tương lai vô lượng chúng sanh được nhiều lợi ích, được nhiều sự an lạc, lại cũng giúp cho chư Bồ Tát trong tương lai phóng ánh hào quang lớn, thừa thọ lực oai thần của Phật, lại cũng vì chư Bồ Tát hiện tại và tương lai được rộng nghe tam muội Niệm Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền này. Sau khi nghe rồi họ sẽ đều thọ trì. Thọ trì xong, tất cả đều tu học như thật, và phụng hành y theo chánh giáo. Học và hành xong, giúp họ chẳng thối chuyển nơi đạo Bồ Ðề vô thượng chánh đẳng chánh giác, ngay trước mặt hay thành tựu đầy đủ những công đức như thế và các công đức thù thắng tối thượng khác. 

Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Hiền Hộ:

-Này Hiền Hộ! Như giáo pháp dạy, ông hãy chú ý lắng nghe cho kỹ, khéo suy tư niệm nhớ. Nay Ta sẽ vì ông mà phân biệt giải thích

Bồ Tát Hiền Hộ lại bạch rằng:

-Lành thay đức Thế Tôn! Con rất muốn nghe những lời dạy của đức Thế Tôn.

-Này Hiền Hộ! Sao gọi là tam muội Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền? Nếu vị Bồ Tát nào thành tựu đầy đủ tam muội này thì sẽ đạt được những công đức như trên, và cũng đạt được những công đức thù thắng kỳ đặc khác. 

Gọi tâm niệm chư Phật đều hiện trước mặt, nghĩa là: 

1/ Tâm đó không tán loạn;

2/ không xả nghiệp cầu trí huệ vô thượng thù thắng;

3/ dũng mãnh tinh tấn

4/ gánh vác đảm nhận trọng trách độ thoát chúng sanh

5/ hầu hạ cúng dường cung cấp cho các bậc thiện tri thức

6/ thường tu hạnh vắng lặng quán chiếu rộng sâu;

]7/ gần gũi chư thiện tri thức;

8/ diệt trừ các ấm cái che chướng, xa rời bạn xấu;

9/ dừng lời nói ngôn ngữ thế gian;

10/ đóng cửa các căn;

11/ đầu hôm giữa đêm cuối đêm giảm thiểu ngủ nghỉ;

12/ chẳng tham y phục, thức ăn, nước uống, thuốc thang, phòng ốc, nhà cửa, giường nằm, tọa cụ;

13/ thường vui nơi chốn A Lan Nhã thanh nhàn;

14/ chẳng đắm thân mình;

15/ chẳng trọng thân mạng;

16/ chẳng chấp trước hình sắc;

17/ tâm chẳng buông thả;

18/ tu thì dùng tâm từ;

19/ huân tập thì nương hạnh bi;

20/ trong mọi thời tâm thường vui vẻ;

21/ thường hành hạnh xả;

22/ phá hoại phiền não thành tựu các thiền định;

23/ ngay trong đó suy tư chẳng đắm trước thiền vị;

24/ khởi tâm quán sát sắc tướng;
25/ tuy được tâm rỗng rang mà chẳng loạn chánh niệm;
26/ chẳng giữ các ấm;
27/ chẳng chấp các nhập;
28/ chẳng suy tư các giới;
29/ chẳng tham chỗ sanh;
30/ hàng phục ngã mạn cao ngạo;
31/ chẳng ganh ghét tài sản của người;
32/ vì thế gian mà làm nhiều lợi ích;
33/ khởi tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh;
34/ đối với chúng sanh tưởng như cha mẹ;
35/ hoặc xem chúng sanh như con một;
36/ không khởi tâm tưởng tranh chấp trong tất cả pháp;
37/ tuy niệm nhớ trì giới mà chẳng chấp trước;
38/ thường trụ thiền định mà không đắm nhiễm;
39/ mến thích đa văn chẳng khởi phân biệt;
40/ giới pháp chẳng khiếm khuyết;
41/ thiền định chẳng động;
42/ trí huệ chẳng vọng;
43/ chẳng ngại các pháp;
44/ chẳng bội nghịch chư Phật;
45/ chẳng phỉ báng chánh pháp;
46/ chẳng làm hoại tăng chúng;
47/ chẳng thích làm trái ngược rời xa;
48/ gần gũi chư thánh;
49/ xa rời kẻ ngu;
50/ chẳng chí cầu xuất thế;
51/ tuy nghe ngôn ngữ, ý chẳng mến thích;
52/ cũng chẳng tham đắm sáu mùi vị thế gian;
53/ tập gần huân tu năm pháp giải thoát;
54/ trừ diệt mười ác;
55/ tu mười điều lành;
56/ đoạn diệt chín loại phiền não của chúng sanh;
57/ tâm thường chẳng rời chin môn quán tưởng;
58/ thường suy tư xả bỏ tám loại giãi đãi;
59/ nhất tâm tu tập tám điều giác ngộ của bậc đại nhân;
60/ chẳng chấp vào thiền vị;
61/ chẳng cậy đa văn;
62/ hàng phục ngã mạn;
63/ nhất tâm nghe pháp;
64/ thâm trọng ân cần cầu pháp;
65/ tu đạo chứng trí;
66/ thương xót chúng sanh;
67/ rời phân biệt chấp ngã;
68/ tưởng cầu thọ mạng dài lâu rốt ráo rất khó;
69/ quán sát các ấm chẳng có thật thể;
70/ chẳng trụ Niết Bàn;
71/ chẳng chấp sanh tử;
72/ thường khởi tâm tưởng lo sợ lớn lao đối với sự luân chuyển của các hành;
73/ khởi nghĩ các ấm là oan gia;
74/ khởi tưởng các nhập như nhà trống;
75/ khởi tưởng các giới như rắn độc;
76/ khởi tưởng ba cõi sầu não;
77/ khởi tưởng Niết Bàn an lạc;
78/ quán các dục lạc dơ bẩn như nước dãi;
79/ vui sâu hạnh xuất gia chẳng trái lời Phật dạy;
80/ khuyến khích chúng sanh tu hành công đức;
81/ đối với các cõi tâm không còn nhiễm trước;
82/ thấy tất cả Phật đều hiện trước mặt;
83/ thọ tất cả thân đều như mộng huyễn;
84/ quán sát diệt trừ tất cả các tướng;
85/ suy tư qua lại chẳng thấy ba cõi;
86/ đối với niềm tin thanh tịnh tin sâu chân thật vi diệu;
87/ niệm tất cả Phật ba đời bình đẳng không có chuyển động mà hay trì giữ các căn lành;
88/ tam muội của tất cả chư Phật đều tự tại;
89/ quyết chẳng đắm nhiễm thân tướng chư Phật;
90/ đối với tất cả pháp đều bình đẳng;
91/ không tranh đấu với tất cả thế gian;
92/ chẳng làm trái ngược những điều nên làm;
93/ thông đạt pháp mười hai nhân duyên thâm sâu suốt đến thánh vị của tất cả chư Phật;
94/ chứng đắc nhẫn nhục tối thượng;
95/ nhập vào pháp giới chân thật;
96/ thấy tánh của cõi chúng sanh chẳng sanh diệt;
97/ thấy cõi Niết Bàn xưa nay hiện trước mắt;
98/ huệ nhãn thanh tịnh 
99/ quán pháp không hai;
100/ tâm Bồ Ðề kia chẳng trong chẳng ngoài;
101/ thể tánh của tất cả chư Phật không có sai khác;
102/ nhập vào cửa trí huệ vô ngại thanh tịnh;
103/ thấy rõ Bồ Ðề tự nhiên giác biết;
104/ đối với thiện tri thức tưởng như chư Phật;
105/ nơi hạnh Bồ Tát chẳng khởi niệm trái ngược xa lìa;
106/ ở trong sanh tử phá hoại quân ma;
107/ xem tất cả sự việc đều như huyễn hóa;
108/ thấy chư Phật như hình tượng trong gương;
109/ phải nên cầu tâm Bồ Ðề;
110/ bình đẳng hành các Ba La Mật;
111/ thật tế tu tập các công đức vô tận của chư Phật 

Này Hiền Hộ! Ðó là tam muội Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền. Nếu có đại Bồ Tát nào muốn thành tựu đầy đủ tam muội như thế, thì trước hết phải thành tựu những công đức đó. 

Này Hiền Hộ! Nên biết rằng cũng có vô lượng công đức nhờ duyên nương vào tam muội này mà sanh khởi

Này Hiền Hộ! Trong đây tam muội nào hay sanh những hạnh công đức như thế? Ðó gọi là tam muội Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền, hay sanh những pháp công đức như thế. 

Lại nữa, này Hiền Hộ! Sao gọi là Bồ Tát Tư Duy Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội?

 Này Hiền Hộ! Nếu có tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ trì giới thanh tịnh đầy đủ các hạnh, đơn độc ở nơi thanh nhàn suy tư như thế, đối với tất cả chỗ tùy theo phương chốn, tức nếu là cõi tây phương của Phật A Di Ðà, thì người này lúc đó nghe về pháp này xong, phải tự niệm nghĩ như vầy, “như những điều mình đã nghe, Phật A Di Ðà kia nay ở cõi Tây Phương; cách đây trăm ngàn cõi Phật có cõi tên là An Lạc, đức Như Lai đó đang ở cõi đó, có chư Bồ Tát vây quanh bốn bên, trong giữa đại chúng Ngài thuyết pháp giáo hóa”. Người này y theo những điều đã nghe như thế, khẩn thành suy tư quán sát không dừng, phân minh rõ ràng, thì cuối cùng sẽ thấy đức Phật A Di Ðà. 

Lại nữa, Hiền Hộ! Giống như trai gái ở thế gian ngủ mơ thấy bao sự việc như vàng, bạc, châu báu, tài sản, nhà cửa xe cộ, hoặc thấy bạn bè các thiện tri thức, hoặc có lúc giác thấy tâm không an lạc. Những cảnh mộng mà người đó thấy hoặc thuận, hoặc nghịch, hoặc buồn, hoặc vui. Có lúc nói lời hân hoan vui vẻ. Có lúc thảm sầu cùng tận ý bi ai. Người này sau khi tỉnh mộng suy tư nhớ lạì những điềm mộng rồi nói cho người khác nghe, tìm kiếm niệm trong giác mộng nên sanh vui buồn

Như thế, này Hiền Hộ! Những trai hiền gái thảo kia nếu ngồi ngay thẳng, khẩn thành niệm nhớ Phật A Di Ðà kia có những tướng hảo như vầy, công đức như vầy, có đại chúng như vầy, thuyết pháp như vầy. Y theo những điều nghe biết mà khẩn thành nhất tâm niệm nhớ liên tiếp theo thứ lớp mà không tán loạn, hoặc qua một ngày, hoặc qua một đêm, hoặc cho đến bảy ngày bảy đêm. Y theo những điều đã nghe mà niệm nhớ đầy đủ. Người này tất sẽ tự thấy Phật A Di Ðà. Nếu trong một ngày mà chưa có thể thấy, thì trong đêm khuya, hay trong giấc mộng, đức Phật A Di Ðà tất sẽ hiện ra

Lại nữa, này Hiền Hộ! Ví nhưthế gian có trai gái nào đi xa qua nước khác, trong giấc mộng thấy quê hương mình, mà lúc đó chẳng biết ngày hay đêm, cũng chẳng biết trong hay ngoài. Lúc đó, tường đá núi non, cho đến u minh đen tối chẳng làm chướng ngại con mắt của họ. 

Này Hiền Hộ! Tâm của đại Bồ Tát không có chướng ngại cũng như thế. Lúc giữ chánh niệm, đối với tất cả cảnh giữa các cõi Phật, dù là núi Tu Di, núi Thiết Vi, núi Thiết Vi lớn, cho đến những núi đen khác, không thể làm chướng ngại con mắt của họ, và cũng không thể che tâm của họ, nhưng thật ra họ chưa đắc thiên nhãn thông mà thấy được cõi Phật, cũng chưa đắc thiên nhĩ thôngnghe được pháp âm, lại chưa có thần thông mà qua cõi đó, lại chưa chết ở cõi này mà sanh trước mặt Phật đó, mà thật vẫn còn ở cõi này tích niệm huân tu quán lâu sáng suốt lanh lợi, cuối cùng sẽ thấy được đức Phật A Di Ðà kia, có tăng chúng đi xung quanh trong chúng hội Bồ Tát, hoặc thấy tự thân ở cõi đó nghe pháp, nghe rồi nhớ rõ thọ trì tu hành, hoặc có lúc cung kính lễ bái hầu hạ cúng dường đức Phật A Di Ðà kia. Người này sau khi khởi tam muội này rồi, xuất định xong, suy tư theo thứ lớp, như những điều thấy nghe mà nói rộng cho người khác. 

Lại nữa, này Hiền Hộ! Như xứ Ma Kiệt Ðà này có ba người đàn ông. Người thứ nhất nghe về dâm nữ Tu Ma Na ở thành Tỳ Xá Ly. Người thứ hai nghe về dâm nữ Am La Bà Ly. Người thứ ba nghe về dâm nữ Liên Hoa Sắc. Ba ông này nghe vế những nàng dâm nữ này rồi dùng phương tiện, chuyên tâm nhớ nghĩ cầu mong được gặp không lúc dừng, mà họ thật ra chưa từng gặp các dâm nữ đó, nhưng vừa nghe tên lại khởi tâm dâm dục, chuyên nhất nhớ nhung không ngừng. Sau này, khi ngủ trong mộng, họ thấy cùng hành lạc với các dâm nữ đó trong thành Vương Xá, rồi sau đó tâm cầu mong cũng tạm dừng vì đã mãn nguyện niềm hy vọng. Lúc tỉnh dậy, họ cố nhớ lại những việc trong giấc mộng đó, như những điều đã nghe thấy, như những điều biết rõ. Nhớ rõ những việc đó rồi đến chỗ của ông mà thuật lại. Ông nên tùy theo phương tiệnthuyết pháptùy thuận căn cơ của họ mà giáo hóa, khiến họ đến nơi chẳng thối chuyển, rốt ráo thành tựu đạo Bồ Ðề vô thượng chánh đẳng chánh giác. Trong tương lai, họ sẽ thành Phật hiệu là Thiện Giác Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Ðẳng, Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Họ đã chứng đắc vô sanh pháp nhẫn xong, sẽ nhớ lại những sự việc trong quá khứ rõ ràng minh bạch

Này Hiền Hộ! Nếu người trai hiền gái thảo nào muốn thành tựu tam muội đại Bồ Tát Tư Duy Nhất Thiết Phật Hiện Tiền thì cũng nên quán chiếu như thế. Thân họ thường ở cõi này, nhưng khi tạm được nghe danh hiệu của Phật A Di Ðà kia, mà hay khởi tâm khẩn thành suy tư liên tục theo thứ lớp chẳng tán loạn, thì sẽ thấy rõ ràng Phật A Di Ðà. Ðó là Bồ Tát suy tư thành tựu đầy đủ tam muội Chư Phật Hiện Tiền. Nhờ tam muội này mà được thấy Phật, rồi thỉnh hỏi Phật A Di Ðà rằng: “Chư Bồ Tát thành tựu pháp gì mà được vãng sanh trong cõi Phật này?” thì đức Phật kia sẽ trả lời rằng: “Nếu ai phát tâm cầu sanh cõi này, thường giữ tâm khẩn thành chánh niệm liên tục về Phật A Di Ðà thì sẽ được vãng sanh”. Ðược vãng sanh rồi thì đức Phật A Di Ðà biết tâm niệm của họ, và được thấy Phật. 

Này Hiền Hộ! Đức Phật A Di Đà bảo người kia rằng: “Này Thiện Nam Tử! Ông nên chánh niệm tinh cần tu tập phát tâm rộng lớn tức sẽ được sanh trong cõi này”. 

Này Hiền Hộ! Lúc đó, vị Bồ Tát này lại bạch Phật A Di Ðà rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ở đây làm sao niệm Phật Thế Tôn, tinh cần tu tập phát tâm rộng lớn mới được sanh vào cõi này?” 

Này Hiền Hộ! Phật A Di Ðà kia sẽ đáp rằng: “Này Thiện Nam Tử! Nay nếu ông muốn niệm Phật chân chánh, thì phải niệm rằng nay Phật A Di Ðà với mười thánh hiệu, có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang sắc thân như khối vàng tụ lại, thành tựu đầy đủ các châu báu, phóng ánh hào quang lớn, ngồi tòa sư tử, trong chúng sa môn thuyết những pháp như thế này: “Tất cả pháp xưa nay chẳng hoại, chẳng không hoại, như bất hoại sắc cho đến bất hoại thức và các hành ấm; lại như bất hoại đất cho đến bất hoại gió và các địa; lại như bất hoại sắc cho đến bất hoại xúc và các nhập; lại như bất hoại Phạm Thiên cho đến bất hoại tất cả chủ của thế gian. Như thế cho đến chẳng niệm nhớ đức Phật kia, cũng chẳng được đức Phật kia niệm nhớ. Họ niệm nhớ đức Như Lai kia xong, theo thứ lớp mà chứng Không tam muội. Này Thiện Nam Tử! Ðó gọi là tam muội Chánh Niệm Chư Phật Hiện Tiền”. 

Này Hiền Hộ! Lúc Bồ Tát đó từ tam muội khởi dậy, đi đến chỗ ông và tường thuật lại tướng tam muội đó. Lúc ấy, ông nên vì họ mà thuyết pháp, tùy thuận giáo hóa, khiến họ đắc quả Bồ Ðề vô thượng chánh đẳng chánh giác chẳng thối chuyển

Này Hiền Hộ! Lúc đó, Ta cũng thọ ký cho người kia sau này sẽ thành Phật, hiệu là Ðức Quang Như Lai với mười danh hiệu. Ngày nay đệ tử của Ta, Ma Ha Ca Diếp, Bồ Tát Ðế Thích Ðức, Thiên tử Thiện Ðức, cùng với vô số chúng Bồ Tát, đã từng tu tam muội này, và đã chứng đắc. Sao gọi là chứng đắc? Tức là chứng nhập Không tam muội

Này Hiền Hộ! Ta nhớ lại kiếp xưa có đức Phật Thế Tôn, hiệu là Tu Ba Nhật. Thuở ấy, có một người đi đến nơi hoang dã, bị đói khát khổ nhọc bức bách, mệt lã ngủ mơ, thấy có đủ những món ăn cao lương mỹ vị, liền vội dùng, rồi không còn bị đói khát nữa, nhưng lúc tỉnh dậy thì vẫn bị đói khát. Vì vậy, gã đó suy nghĩ: “Các pháp đều là không, chẳng thật, giống như những việc đã thấy trong mộng vốn chẳng phải thật”. Nhờ quán chiếu như thế nên liễu ngộ pháp Vô Sanh Nhẫn, được đạo Bồ Ðề vô thượng chánh đẳng chánh giác không thối chuyển

Cũng như thế, này Hiền Hộ! Có Bồ Táttại gia hay xuất gia, nghe có chư Phật ở chỗ nào, liền hướng về nơi đó mà chí tâm đảnh lễ, chân thành khát ngưỡng muốn thấy vị Phật kia, rồi tinh tấn chuyên nhất suy tư như thế, lại phải nên quán sát sắc tướng của Phật như thế, cũng lại quán tưởng hình ảnh đó như hư không, mà thành tựu pháp quán tưởng hư không; được trụ trong chánh tư duy như thế; trụ trong chánh tư duy xong, được thấy hào quang của đức Phật kia, trong suốt như lưu ly, thân tướng đoan chánh như cột vàng ròng. Cách quán niệm đó được thấy đức Như Lai như thế. 

Lại nữa, này Hiền Hộ! Ví như có người đột nhiên từ quê hương mình mà bỏ đi sang xứ khác. Tuy ở xứ người, nhưng thường nghĩ nhớ về nơi chốn sanh ra, thấy hiểu như thế, nghe như thế, nhớ nghĩ như thế, hiểu rõ như thế. Nhớ nghĩ đã lâu, nên trong giấc mộng thấy rõ tự thân đang ở quê nhà, và sự nghe biết cũng như xưa. Lúc đó, người này bàn điềm mộng với bà con quyến thuộc rằng: “Tôi thấy như vầy, nghe như vầy, làm ăn như vầy, được lợi lạc như vầy”. 

Cũng như thế, này Hiền Hộ! Có Bồ Tát tại gia hay xuất gia, nếu từ người khác mà nghe có đức Phật Thế Tônphương hướng nào, thì hướng về nơi đó, chí tâm đảnh lễ muốn thấy đức Phật kia, chánh niệm lòng không tạp loạn; nhờ niệm nhớ mà thấy sắc tướng của đức Phật kia, hoặc như lưu ly, hoặc như sắc vàng ròng

Lại nữa, này Hiền Hộ! Giống như tỳ kheo tu quán bất tịnh, thấy xác tử thi mới đã biến dạng, hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đen, hoặc đỏ, hoặc có lúc trương phình, hoặc đã sình thúi máu mủ chảy tràn lan, loài trùng ăn thịt tử thi đến lúc chỉ còn bộ xương trắng tuếch như đá ngọc, cho đến quán tưởng xương cốt tan rã, mà bộ xương cốt đó không từ đâu đến và cũng chẳng đi về đâu, chỉ do tâm tạo, trở lại thấy tự tâm

Cũng như thế, này Hiền Hộ! Nếu chư Bồ Tát muốn thành tựu tam muội Niệm Phật Hiện Tiền, thì tùy theo phương hướng, trước hết khởi niệm muốn thấy đức Phật kia, rồi tùy theo sự quán niệm mà thấy đức Như Lai. Vì sao? Do nhờ duyên theo tam muội này mà được thấy đức Như Lai. Ðược thấy Phật có ba nhân duyên, tức là nhờ duyên vào tam muội này, nhờ sự gia trì của đức Phật đó, căn lành của họ đã thuần thục. Ðầy đủ ba nhân duyên đó thì sẽ thấy rõ đức Phật Như Lai kia. 

Lại nữa, này Hiền Hộ! Như người ở tuổi xuân xanh diệu mạo đoan chánh, muốn xem hình tướng đẹp xấu liền đổ đầy dầu xanh vào bồn, hoặc dùng nước trong, hoặc lấy thủy tinh, hoặc cầm gương sáng, rồi dùng bốn vật đó mà xem gương mặt, đẹp xấu, hiền dữ, đều hiện trong đó phân minh rõ ràng

Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao? Gương mặt hiện trong bốn đồ vật nước dầu xanh, nước trong, thủy tinh, và gương sáng, là có trước chăng? 

Bồ Tát Hiền Hộ thưa:
-Dạ thưa, không phải.
-Như vậy gương mặt hiện trong những đồ vật đó vốn là không chăng?
-Dạ thưa, không phải.
-Gương mặt có ở trong các đồ vật đó chăng?
-Dạ thưa, không phải.
-Vậy ở ngoài chăng? 

-Dạ thưa, không phải. Bạch đức Thế Tôn! Bốn vật, nước dầu, nước trong, thủy tinh, chiếc gương sáng sạch không dơ không bẩn, mà khi soi thì gương mặt hiện trong đó, nhưng gương mặt chẳng phải có từ trong đó, cũng chẳng phải có từ nơi khác, chẳng tự nhiên mà có, chẳng do người khác tạo ra. Nên biết rằng gương mặt đó không từ đâu đến, và cũng không có chỗ đi, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng có nơi chốn. 

-Này Hiền Hộ! Ðúng như thế, đúng như thế! Như lời ông nói, nhờ có các đồ vật thanh tịnhhình sắc của người đó rõ ràng, nên gương mặt tự hiện mà chẳng dùng nhiều công sức. Bồ Tát cũng như thế, nhất tâm khéo suy tư thấy đức Phật kia, thấy rồi liền trụ lại, trụ lại rồi thỉnh hỏi nghĩa lý, được giải thích nên hoan hỷ, rồi lại suy gẫm: “Ðức Phật này từ đâu đến, mà thân tôi lại từ đâu hiện ra?” Quán chiếu đức Như Lai rốt ráo không đến từ đâu và không đi về đâu. Thân của mình cũng như thế, không có chỗ xuất ra, thì nói gì có chỗ trở về? Người đó nên tư duy như thế này: “Nay trong ba cõi, chỉ có tâm. Vì sao? Tùy theo tâm niệm, trở lại tự thấy tâm. Nay tôi từ tâm thấy Phật. Tâm tôi làm Phật. Tâm tôi là Phật. Tâm tôi là Như Lai. Tâm tôi là thân tôi. Tâm tôi thấy Phật. Tâm chẳng biết tâm. Tâm chẳng thấy tâm. Tâm có ý tưởng thì thành tâm sanh tử. Tâm không ý tưởng thì là Niết Bàn. Các pháp chẳng thật, do tư tưởng mà khởi ra. Cái bị tưởng đã diệt thì tâm hay tưởng cũng là không. 

Hiền Hộ ông nên biết rằng chư Bồ Tát nhờ tam muội này mà chứng đạo đại Bồ Ðề.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19737)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23991)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41249)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19722)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27521)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26587)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29354)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33233)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25802)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20945)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31357)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38615)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21465)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44301)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29863)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42251)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22162)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45805)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32144)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23988)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24423)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29312)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33945)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27711)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28879)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28116)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21458)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19541)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19491)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19850)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19283)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29231)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20644)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28324)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23676)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33230)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31878)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21416)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39669)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21588)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19406)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26434)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24856)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21774)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22414)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29168)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20489)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21261)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35377)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24578)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant