Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Phẩm Nhiêu Ích

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8340)
9. Phẩm Nhiêu Ích

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Nhiêu Ích, thứ 9

Lúc ấy, đức Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Hiền Hộ rằng này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia vô lượng a tăng kỳ kiếp, có một đức Phật hiệu là Vô Úy Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện nơi thế gian. Bấy giờ, có một công tử, tên là Tu Đạt Đa, cùng hai mươi hai ngàn người đi đến chỗ của đức Phật đó. Đến nơi, Tu Đạt Đa cung kính đảnh lễ chân Phật, lui về ngồi một bên, rồi cung thỉnh Phật Vô Úy Vương tuyên nói rộng tam muội thâm sâu này.

Này Hiền Hộ! Đức Phật Vô Úy Vương biết Tu Đạt Đatín tâm thâm sâu, ưa muốn nghe tam muội này, nên tùy theo thời mà giảng giải.

Này Hiền Hộ! Tu Đạt Đa sau khi nghe tam muội ở đó, liền đọc tụng thọ trì, suy tư nghĩa lý, y theo lời Phật dạyhành trì. Hành trì một thời gian sau, Tu Đạt Đa lại xả tục xuất gia, cắt bỏ râu tóc, đắp y ca sa trong pháp của Phật Vô Úy Vương, rồi suy tư tam muội này suốt tám mươi ngàn năm. Lại nữa, Tu Đạt Đa hay thọ trì tất cả giáo pháp ở nơi đức Phật đó. Về sau, ở nơi đức Như Lai đó, Tu Đạt Đa nghe dạy những pháp đó rồi đều hay thọ trì, và vun trồng biết bao căn lành, khéo rộng thành tựu không thể nghĩ bàn. Sau khi xả thân mạng liền sanh lên cõi trời thứ ba mươi ba, được thọ quả báo lành. Trong kiếp đó lại gặp đức Phật thứ hai, thuộc dòng Sát Lợi, hiệu là Điện Đức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Tu Đạt Đa cũng lại xuất gia trong giáo pháp của Phật Điện Đức, suốt tám mươi bốn ngàn năm, rồi vẫn suy tư tam muội đó. Sau này, lại gặp đức Phật thứ ba, vốn xuất thân từ dòng Bà La Môn, hiệu là Quang Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Ở nơi đức Phật này, Tu Đạt Đa cũng xuất gia tu hành suốt tám mươi bốn ngàn năm, thường suy tư tam muội đó.

Này Hiền Hộ! Về sau, qua hơn trăm kiếp, Tu Đạt Đa thành tựu quả vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Này Hiền Hộ! Ông nên biết rằng Tu Đạt Đa xưa kia đâu phải ai khác lạ; Ngài chính là đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác trong đời quá khứ

Hiền Hộ, ông nên biết rằng Tu Đạt Đa do mến thích pháp đó, lại có tâm cầu pháp đó, nên chóng thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Ông nên quán chiếu tam muội vương đó, vì chư Bồ Tátchúng sanh mà hoằng dương rộng lớn và tạo sự nghiệp lợi lạc, thì sẽ đắc được tất cả trí địa của chư Phật, lại hay nhiếp thọ tất cả biển đa văn của chư Phật.

Này Hiền Hộ! Vì vậy các ông nên cần cầu tam muội đó, thường thích lắng nghe, đọc tụng, thọ trì, suy tư, tu hành. Sau khi lắng nghe thọ trì, phải nên vì người khác mà đọc tụng, thọ trì, giải thích nghĩa lý, để khiến họ cần cầu rồi được nghe qua, chánh niệm suy tư, y theo lời dạy mà tu hành. Vì sao? Này Hiền Hộ! Nếu hay cần cầu đọc tụng thọ trì, chánh niệm tu hành, giảng nói rộng, lưu bố tam muội này, thì chẳng bao lâu sẽ chứng đắc trí huệ của chư Phật, trí huệ đại tự tại, trí huệ không thể nghĩ bàn, trí huệ không thể xưng tán, trí huệ vô đẳng đẳng, trí huệ nhất thiết trí, cho đến đắc được trí huệ bất cộng.

Này Hiền Hộ! Nếu có người hay khéo tuyên thuyết thì phải nên nói lời chân chánh rằng tam muội này tức là mắt của tất cả chư Bồ Tát, cha của chư Bồ Tát, mẹ của chư Bồ Tát, hay ban trí huệ của chư Phật cho tất cả chư Bồ Tát.
Này Hiền Hộ! Tuyên thuyết như thế tức là lời nói lành, lời nói đúng thời.

Này Hiền Hộ! Nếu người trai lành gái thảo nào hay khéo nói lời lành thì phải nói chân chánh rằng tam muội này tức là Phật tánh, tức là Pháp tánh, tức là Tăng tánh, tức là đất Phật, tức là biển đa văn, tức là Đầu Đà vô tận tạng, tức là công đức Đầu Đà vô tận tạng, tức là công đức vô tận tạng của chư Phật, tức là vô tận tạng hay sanh hạnh nhẫn nhục thâm sâu, hay sanh đại từ, hay sanh đại bi, hay sanh Bồ Đề.

Này Hiền Hộ! Vì vậy, phải hay khéo nói, nói đúng thời về tam muội này.

Này Hiền Hộ! Lúc người nào khéo nói về tam muội này, thì phải nói thật rằng đó là tam muội vương, hay phá tất cả sự tối tăm, hay tạo tất cả pháp lớn sáng lạng.

Này Hiền Hộ! Vì vậy phải nên khéo nói tam muội này.

Này Hiền Hộ! Ông lại hãy xem xét vị Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Hiện Tiền, vì các chúng sanh mà làm lợi ích lớn, cho đến vì tất cả hàng Bồ Tát mà trụ ở cõi này, lại thấy tất cả chư Phật ở mười phương, đi đến các cõi chư Phật, cung kính đảnh lễ, lắng nghe chánh pháp, cúng dường chư tăng, mà cũng chẳng tham trước.

Này Hiền Hộ! Do nghĩa đó mà chư Bồ Tát nếu muốn thành tựu tam muội vương, thì phải chuyên tâm tinh cần quán sát Tứ Niệm Xứ đó.

Này Hiền Hộ! Sao gọi là Bồ Tát quán Tứ Niệm Xứ? 

Này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát thường nên chuyên tâm quán sát thân hạnh để rốt ráo chẳng thấy tất cả than; thường nên chuyên tâm quán sát thọ hạnh mà chẳng thấy tất cả thọ; thường nên nhất tâm quán sát tâm hạnh mà chẳng thấy tất cả tâm; thường nên nhất tâm quán sát pháp hạnh mà chẳng thấy tất cả pháp.
Này Hiền Hộ! Ai có thể tin những việc như thế? Chỉ có chư A La Hán lậu tận và chư Bồ Tát bất thối chuyển mới tin được. 

Này Hiền Hộ! Đối với Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Hiện Tiền, các phàm phu ngu si phải nên suy tư về chư Phật Thế Tôn mà chẳng sanh tâm tham trước, và cũng suy tư chư Phật Thế Tôn thuyết pháp như thế mà chẳng sanh tâm tham trước; lại cũng suy tư về pháp mình đã nghe mà không tham trước tất cả pháp. Vì sao? Này Hiền Hộ! Các pháp đều là Không, vốn chẳng có sanh.

Này Hiền Hộ! Không thể niệm nhớ các pháp, vì không có chỗ niệm nhớ. 

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn xa rời, vì dứt tuyệt tâm tưởng.

Này Hiền Hộ! Không thể chấp trì các pháp, vì là chân như không thể đắc được.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn không nhiễm ô, vì như hư không.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn thanh tịnh, vì xa rời chúng sanh.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn không ô trược, vì nhân duyên diệt.

Này Hiền Hộ! Các pháp vốn vô vi, vì không thể nắm bắt Phú Ca La.

Này Hiền Hộ! Các pháp tức là tướng Niết Bàn, vì bản tánh vốn thanh tịnh.

Này Hiền Hộ! Các pháp vô sở hữu, vì không thể nắm bắt tất cả vật.

Này Hiền Hộ! Do đó, các Bồ Tát nào muốn suy tư tam muội này, không thể dùng tướng khác mà hay khéo nhập vào tướng vô sở đắc, được thấy chư Phật, chánh niệm chư Phật, hòa hợp tương ưng, cũng đắc suy tư trợ Bồ Đề phần, niệm nghe chánh pháp, suy nghĩ phân biệt tuyển trạch Bồ Đề phần, mà chẳng thấy tự thân, cũng chẳng chứng đắc các pháp. Vì sao? Này Hiền Hộ! Vì trong đó không thể lấy hình tướng mà thấy được Phật, cũng chẳng lấy âm thanh mà được nghe pháp; không thể lấy tâm hy vọngthành tựu Bố Thí Ba La Mật; không thể lấy sự mến thích các cõi mà đầy đủ Giới Ba La Mật; không thể lấy sự bỏn xẻn pháp bí mậtchứng đắc Niết Bàn; không thể lấy sự tham trước vào tâm tưởng Phú Ca Lađạt được đa văn; không thể lấy sự phan duyên vào các hạnh mà hay xa rời các sự việc; không thể lấy sự mến luyến chỗ nơi mà chứng quả; không thể lấy sự tùy thuận theo tham ái mà rời các lỗi lầm; không thể lấy sự tranh chấpthành tựu các hạnh nhẫn nhục; không thể thường hành nghiệp xấu mà đắc được quả lành; không thể y theo người Thanh Vănchứng đắc Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Hiện Tiền, cũng không thể chứng đắc các hạnh nhẫn nhục của chư Bồ Tát; cũng không thể lấy sự ganh ghét chấp trước mà đắc Không tam muội; cũng không thể lấy sự hành ái dục mà nhập Xa Ma Tha, cũng không thể lấy sự giải đãi ỷ lại mà chứng thánh đạo; cho đến cũng không thể lấy hạnh chẳng xả các niệm khác về các vật mà thành tựu suy tư.

Này Hiền Hộ! Thế nên, ngày nay Ta phó chúc tam muội này cho các hàng Đại Thiên Vương, thọ trì thủ hộ, và cũng phó chúc cho ông. Phải nên tuyên thuyết rộng trong tương lai, chớ để tuyệt mất.

Lúc đức Thế Tôn thuyết pháp như thế, có tám na do tha chư Thiên Tử trong cõi Dục giớiSắc giới đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có vô số trăm ngàn người cũng phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Trong tương lai qua hằng sa kiếp, tất cả họ sẽ chứng đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và đồng một danh hiệu là Chánh Giải Thoát Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Trụ thế, thọ mạng, giáo hóa, tất cả đều giống như nhau. 

Này Hiền Hộ! Chỉ dùng tâm sơ phát Bồ Đề mà được vô lượng công đức, thành tựu đầy đủ đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, huống là đã từng cúng dường Ta, lúc Ta còn hành hạnh Bồ Tát xưa kia. Họ chẳng mau thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sao! 

Này Hiền Hộ! Lại có vô số chúng sanh nghe pháp này, đắc được mắt trí thanh tịnh. Lại có tám trăm vị tỳ kheo ngay trong các lậu, tâm được giải thoát.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng;

“Ai hay thọ trì tam muội này
Họ sẽ tích tụ vô số phước
Giới hạnh của họ không nhơ
Bổn tâm thanh tịnh như gương sáng.
Ai hay thọ trì tam muội này
Đa văn rộng sâu không thể lường
Trí huệ tự nhiên không khuyết giảm
Công đức sung túc như trăng sáng
Ai hay thọ trì tam muội này
Được thấy chư Phật không nghĩ bàn
Trí huệ quán chiếu pháp hy hữu
Bậc không thể bàn đều thủ hộ.
Ai thường thọ trì tam muội này
Được gặp vô số chư Thế Tôn
Phật kia thuyết pháp khó xưng lường
Đều nên hầu hạ tu cúng dường.
Ai hay thọ trì tam muội này
Họ làm ngọn đèn cho thế gian
Đại bi như Phật, dứt các khổ
Tất cúng dường tất cả Thế Tôn.
Ai hay thọ trì tam muội này
Tương lai vô số chư Thánh Tôn
Nếu có Bồ Tát muốn thấy mặt
Thanh tịnh tín tâm tu cúng dường.
Ai hay thọ trì tam muội này
Họ được lợi thù thắng vô cùng
Khéo hay sanh xuống cõi người
Thường được xuất gia khéo cầu thực.
Ai hay thọ trì tam muội này
Họ thọ nhiều phước không nghĩ bàn.
Lại hay trụ trì trong tương lai
Được công đức kia, rốt ráo lợi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19737)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23990)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41248)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19721)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23330)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27520)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26585)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29350)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33231)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20215)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25801)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20944)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31357)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38615)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21464)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44300)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29862)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42251)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22157)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45804)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32143)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23986)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24421)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29310)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33944)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27710)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21099)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28879)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28112)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21458)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19540)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19491)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19850)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19281)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29228)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20643)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28320)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23674)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33230)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31875)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21416)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39664)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21588)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19405)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26431)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24855)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21770)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22414)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29164)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20486)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21258)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35374)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24575)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant