Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Phẩm Tùy Hỷ Công Đức

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 7761)
15. Phẩm Tùy Hỷ Công Đức

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Tùy Hỷ Công Đức, thứ 15

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Hiền Hộ rằng:

-Này Hiền Hộ! Nếu đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ bốn pháp tùy hỷ, thì đắc được tam muội Hiện Tiền, mau chóng thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sao gọi là bốn pháp tùy hỷ? Đại Bồ Tát suy nghĩ như vầy, như chư Phật trong đời quá khứ lúc hành hạnh Bồ Tát đều do hạnh tùy hỷ mà đắc được tam muội này; nhờ tam muội này mà đầy đủ đa văn; nhờ đa văn mà mau chóng thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, nên tôi ngày nay cũng phải như vậy, y theo hạnh tùy hỷ mà đắc được tam muội này; nhờ tam muội này mà đầy đủ đa văn; nhờ đa văn mà sớm thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng. Này Hiền Hộ! Đó là tụ công đức tùy hỷ thứ nhất của đại Bồ Tát.

Này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát lại phải niệm nhớ như vầy: Như chư Phật Như Lai trong tương lai lúc hành đạo Bồ Tát đều nhờ hạnh tùy hỷ mà đắc được tam muội; nhờ tam muội này mà được đầy đủ đa văn; nhờ đa văn mà mau chóng thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, nên tôi ngày nay không khác, sẽ nhờ hạnh tùy hỷ mà đắc được tam muội; nương tựa vào tam muội này mà cầu đầy đủ đa văn; do đa văn mà sớm thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng. Này Hiền Hộ! Đó là tụ công đức tùy hỷ thứ hai của đại Bồ Tát.

Này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát phải nên niệm nhớ như vầy: Hiện nay trong vô lượng vô biên a tăng kỳ cõi nước, tất cả chư Phật xưa kia lúc còn hành hạnh Bồ Tát, cũng nhờ tùy hỷ mà đắc được tam muội; do được tam muội này mà đầy đủ đa văn; do đa vănhiện tại đều đắc quả Bồ Đề vô thượng, nên tôi ngày nay cũng tùy hỷ, cho đến muốn chóng thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng. Này Hiền Hộ! Đó là tụ công đức tùy hỷ thứ ba của đại Bồ Tát

Lại nữa, này Hiền Hộ! Đại Bồ Tát lại phải niệm nhớ như vầy: Nay tôi đã ngưỡng vọng học theo hạnh Bồ Tát mà hết thảy chư Phật trong quá khứ đã từng hành trì; các ngài đều nhờ tùy hỷ mà đắc tam muội; đều nhờ tam muội mà đầy đủ đa văn; đều nhờ đa văn mà được thành Phật. Nay tôi nương công đức tùy hỷ, nguyện cùng tất cả chúng sanh, đồng sanh tâm tùy hỷ, cùng đắc được tam muội này, cùng đầy đủ đa văn, cùng thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác. Này Hiền Hộ! Đó là tụ công đức tùy hỷ thứ tư của đại Bồ Tát

Lại nữa, này Hiền Hộ! Chư Bồ Tát đã thành tựu hạnh tùy hỷ như thế, tam muội như thế, đa văn như thế, sớm chứng quả Bồ Đề như thế; nhờ công đức đó mà cùng với chúng sanh đồng hồi hướng đến quả Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác. Công đức đó thật khó xưng lường. Nay Ta vì ông mà lược nói chút ít phần. Ông phải chú ý lắng nghe, khéo suy nghĩ.

Này Hiền Hộ! Ví như có người sống đến một trăm tuổi, thân nhẹ nhàng, khí lực mạnh, đi mau như bay, lúc vừa sinh ra họ đã đi suốt một thế giới; trước hết họ đi hết các cõi ở phương đông; như thế thứ lớp họ đi qua suốt hết mười phương như phương nam, tây, bắc, bốn bên, trên dưới. Này Hiền Hộ! Ý ông nghĩ sao? Giả sử có người thông minh xuất chúng, khéo thông thạo toán số, hay tính toán cõi nước, đất đai, đường xá xa gần, dài ngắn mà người đó đã đi qua được chăng?

Hiền Hộ bạch rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Không thể được.

Đức Phật bảo rằng:

-Lại có thể đo lường chăng?

-Bạch đức Thế Tôn! Không thể được!

-Lại có thể xem xét được chăng?

-Bạch đức Thế Tôn! Không thể được.

-Lại có thể suy gẫm hết được chăng?

-Bạch đức Thế Tôn! Không thể được.

-Này Hiền Hộ! Người đó đi suốt một trăm năm, rồi mau chóng trở về, đi qua vô số cõi nước trong mười phương. Người giỏi toán số có thể tính đếm được chăng?

-Bạch đức Thế Tôn! Không thể được. Người giỏi toán số còn không biết buổi đầu, chỗ đi, cõi đất xa gần, nói gì hay tính biết người đó trong một đời tận sức bay đi khắp mười phương, vô số cõi nước, đường xá, số do tuần ít nhiều; nếu muốn biết thì chỉ có đức Thế Tôn, đại đệ tử Xá Lợi Phất, và hàng đại Bồ Tát bất thối mới rõ được. 

-Này Hiền Hộ! Đúng như thế, đúng như thế! Nay Ta nói rõ cho ông nghe, nếu có người trai hiền gái thảo nào khởi tâm cung kính, mang đầy đủ trân bảo ở trong các cõi nước mà người đi trong gió đã từng đi qua, để cúng dường chư Phật trong mười, thì phước báu đó tuy gọi là nhiều, nhưng không bằng một phần nhỏ công đức của người tùy hỷ tam muội này. Vì sao? Này Hiền Hộ! Do đại Bồ Tát tu tam muội này nên đầy đủ bốn pháp tùy hỷ lớn như trên, rồi hồi hướng đến đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, vì cầu đa văn thành đấng Chánh Giác.

Này Hiền Hộ! Nhân duyên hành hạnh bố thí phước nếu so sánh với công đức tùy hỷ tam muội thì không thể bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, một phần ức trăm ngàn, cho đến tính đếm ví dụ cũng không thể được.

Này Hiền Hộ! Ông nên biết rằng công đức do tùy hỷhồi hướng đạo Bồ Đề của chư Bồ Tát, nay Ta sẽ nói cho ông biết rõ chút ít. Hãy chú ý lắng nghe. Này Hiền Hộ! Ta nhớ trong đời quá khứ trãi qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, có Phật hiệuSư Tử Ý Như Lai, đầy đủ mười hiệu, xuất hiện ở cõi này. Này Hiền Hộ! Bấy giờ, trong cõi Diêm Phù Đề này, nhân dân đông đúc, có nhiều tài sản châu báu, phồn thịnh, vui vẻ, an ổn, thật rất đáng thích. 

Này Hiền Hộ! Cõi Diêm Phù Đề này dài rộng mười tám ngàn do tuần, mà trong đó có mười tám ngàn đô thành xóm làng; tất cả đều xây dựng từ bảy loại châu báu; mỗi đô thành dài rộng mười hai do tuần; trong thành có chín mươi ức dân chúng.

Này Hiền Hộ! Thành lớn tên là Hiền Tác, có mười sáu ức dân chúng sống trong đó, và là nơi mà Phật Sư Tử Như Ý thị hiện đản sanh. 

Này Hiền Hộ! Hội ban đầu, đức Phật Sư Tử Ý thuyết pháp có chín mươi ức người chứng quả A La Hán. Qua bảy ngày sau, trong hội thuyết pháp thứ hai, có chín mươi ức người chứng quả A La Hán. Trong hội thuyết pháp thứ ba lại có chín mươi ức người đắc quả A La Hán. Sau hội thuyết pháp thứ ba, lại có chín mươi ức vị Bồ Tát thanh tịnh từ phương khác đến tham dự đại hội. Từ đó, đức Phật kia thường có vô số đại chúng Thanh Văn.

Này Hiền Hộ! Lúc ấy dân chúng hành mười điều lành, như các chúng sanh do đức Phật Di Lặc dạy dỗ trong tương lai; họ thành tựu đầy đủ mười loại hạnh lành, thọ mạng tám mươi bốn ngàn tuổi, như các chúng sanh thời Phật Di Lặc không khác.

Này Hiền Hộ! Lúc đó, trong thành lớn có Chuyển Luân Thánh Vương tên là Thắng Du, y theo chánh pháp mà trị thế gian, đầy đủ bảy báu, như vòng vàng ròng, voi báu, ngựa báu, ma ni báu, nữ báu, trưởng giả báu, chủ binh báu, cùng với một ngàn thái tử tướng hảo đoan nghiêm, thành tựu oai nghi, hàng phục oán địch. Nhà vua cai quản toàn cõi thế giới, mà chẳng dùng đao binh, cũng không dùng oai mà bức bách, không có thuế má, tất cả sự thu liễm đều đủ tự nhiên

Khi ấy, vua Thắng Du đi thẳng đến chỗ Phật Sư Tử Như Ý, cúng dường bậc Chánh Giác, đảnh lễ chân Phật, rồi lui về ngồi sang một bên. Lúc đó, đức Phật Sư Tử Như Ý biết tâm của nhà vua đã khát ngưỡng nghe pháp, nên tuyên nói rộng tam muội Hiện Tiền. Sau khi nghe xong tam muội này, tự thâm tâm nhà vua phát khởi sự tùy hỷ, dâng một chuỗi châu báu lên cho Phật. Do căn lành tùy hỷ đó, sau khi chết, nhà vua tái sanh trở lại cõi Diêm Phù Đề này, làm vua hiệu là Phạm Đức, lại y theo chánh pháp mà trị dân chúng. Sau khi Phật Sư Tử Ý diệt độ, trong thời chánh pháp có một vị tỳ kheo tên là Bảo, thông minh tinh tấn, thường vì bốn chúng giảng rộng kinh điển như vầy.

Này Hiền Hộ! Nhà vua Phạm Đức sau khi nghe pháp này từ tỳ kheo Bảo xong, được niềm tin thanh tịnh thâm sâu, khởi tâm tùy hỷ, đem y phục vi diệu tối thượng trị giá trăm ngàn lượng vàng dâng lên cho vị tỳ kheo đó.

Này Hiền Hộ! Sau khi nghe tam muội này từ tỳ kheo Bảo, nhà vua phát tâm Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, vì mến pháp nên xả bỏ vuơng vị, xuất gia cạo bỏ râu tóc, đắp y ca sa. Bấy giờ cũng có trăm ngàn người thành tựu tín tâm, y theo vương pháp đắp y xuất gia, cũng vì tam muội này.

Lúc ấy, tỳ kheo Phạm Đức và trăm ngàn đại chúng tỳ kheo cùng cúng dường hầu hạ tỳ kheo Bảo suốt tám ngàn năm mà không mõi mệt, nhưng chưa có thể chứng đắc tam muội này, chỉ được nghe; nghe rồi tùy hỷ, đầy đủ công đức của bốn pháp tùy hỷ, hồi hướng đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, như vừa tùy hỷ thì rộng hành theo như thế. Về sau, tỳ kheo Phạm Đức và trăm ngàn đại chúng tỳ kheo nhờ căn lành này mà gặp trực tiếp 68,000 chư Phật. Ở tất cả chỗ sanh ra thường rộng nói tam muội này cho đại chúng nghe. Tỳ kheo Phạm Đức do căn lành này, lại gặp được 68.000 ức chư Phật. Trồng những căn lành theo thứ lớp như thế, nên đắc được tam muội này, viên mãn đầy đủ các pháp trợ Bồ Đề xong, chứng đắc đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, thành Phật hiệu là Kiên Cố Tinh Tấn, đầy đủ mười hiệu. Trăm ngàn vị tỳ kheo cũng đắc được tam muội này, và hay thành tự pháp trợ đạo Bồ Đề, rồi đồng chứng đắc đạo Bồ Đề vô thượng, hiệu là Kiên Dũng, đầy đủ mười hiệu; lại khiến cho trăm ngàn vô số chúng sanh trụ trong đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Này Hiền Hộ! Họ vừa nghe qua lại được công đức như thế, huống gì Bồ Tát nghe tam muội này, đọc tụng thọ trì, vì người nói rộng, lại khuyên tinh cần suy tư tu hành mà không chứng đắc sao! 

Này Hiền Hộ! Do nghĩa này, chư Bồ Tát nghe được tam muội này mà ai lại không tùy hỷ, ai lại không đọc tụng, ai lại không thọ trì, ai lại không tu tập, ai lại không nói rộng! Vì sao? Này Hiền Hộ! Do Bồ Tát được nghe tam muội này, nên thành tựu các pháp trợ đạo Bồ Đề, chóng thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Này Hiền Hộ! Do nhân duyên đó mà nay Ta bảo ông rằng nếu có ai chánh tín, tâm thanh tịnh, muốn cầu đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, trước hết phải chí tâm cầu tam muội này. Bồ Tát nếu nghe trong vòng trăm do tuầnkinh điển tam muội này, thì phải đích thân đến đó mà nghe giảng giải. Nghe rồi phải đọc tụng, thọ trì, tu tập, suy tư, vì người nói rộng.

Này Hiền Hộ! Trong vòng trăm do tuần phải đến nghe. Nếu Bồ Tát nghe trong vòng hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm cho đến ngàn do tuầntam muội này, đang được giảng ở thành đô, xóm làng nào đó, thì phải đích thân đến nghe, thọ trì, đọc tụng. Vì sao? Này Hiền Hộ! Đó là do Bồ Táttín tâm thanh tịnh, cầu thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì vậy, Bồ Tát chớ nên khởi tâm làm biếng, uể oải, tán loạn, mà phải phát tâm tinh tấn dũng mãnh, phải vì tam muội này mà mau đến chỗ xa ngàn do tuần đó, để được nghe tam muội này, huống là đọc tụng thọ trì suy tư, giải thích! Vì sao? Này Hiền Hộ! Do nhờ tam muội này mà hay gìn giữ tất cả pháp trợ đạo Bồ Đề.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Trong đại chúng này nếu có ai dùng tâm thuần tịnh vì cầu Bồ Đề, đi xa ngàn do tuần, được nghe tam muội này, thì Bồ Tát nên hầu hạ cúng dường vị Pháp Sư thuyết pháp đó; tất cả thức ăn đồ vật đều dâng cúng; thường phải y theo vị Pháp Sư đó mà hành trì; hoặc qua một năm, hai năm, mười hai năm, trăm năm, cho đến suốt đời vẫn y theo vị Pháp Sư mà không rời bỏ, chỉ vì cầu nghe tam muội này, huống là đọc tụng, thọ trì, suy tư nghĩa lý, vì người giải thích. Lúc Bồ Tát đi theo hầu vị Pháp Sư, phải buông xả tất cả vọng tưởng trong tâm, phải tùy thuận theo ý hạnh của vị Pháp Sư A Xà Lê đó, tâm thành khẩn thiết hầu hạ mà chẳng làm trái lời dạy, khởi tâm cung kính, mến trọng, trừ bỏ tất cả những việc không đáng kính mến. Đối với vị Pháp Sư thường nghĩ tưởng là vị Thiện Tri Thức, cho đến khởi tâm xem như chư Phật.
Này Hiền Hộ! Bồ Tát ở nơi vị Pháp Sư A Xà Lê, hay sanh tâm kính mến. Nếu không thọ trì đọc tụng, suy tư, nói rộng, cho đến không nghe tam muội này, thì quyết không có lý nào như thế, chỉ trừ định nghiệp đọa đường ác bất tịnh do xưa kia đã từng phỉ báng kinh điển thâm sâu này.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Giả sử Bồ Tát đó muốn rời vị Pháp Sư đó, phải biết ân, thường nhớ ân, thường nên báo ân. Vì sao? Này Hiền Hộ! Đó là nhờ nhân duyên vị Pháp Sư tuyên giảng, nên kinh này mới được trụ ở thế gian dài lâu.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu có Bồ Tát vì cầu tam muội này, phải đi đến chỗ xa ngàn do tuần, huống gì ở những chỗ gần gũi như trong thành ấp, xóm làng, chỗ vắng vẻ, chỗ núi rừng hoang dã mà không đến lắng nghe, đọc tụng, thọ trì, suy tư nghĩa lý, vì người nói rộng!

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nay Ta nói cho ông nghe, nếu có Bồ Tát vì cầu tam muội này hay đi tới nơi xa ngàn do tuần, nhưng chưa nghe được tam muội này, thì vị này phải niệm cầu căn lành trong chánh pháp, phải tinh tấn, chớ giãi đãi. Ông nên biết rằng Bồ Tát đó đã không còn thối chuyển nơi đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, huống gì được nghe, thọ trì đọc tụng, suy tư, vì người nói rộng. 

Này Hiền Hộ! Ông nên xem hàng Bồ Tát đó, sau khi nghe tam muội này rồi mà hay thọ trì đọc tụng tu hành, cũng sẽ thành tựu đầy đủ các công đức lớn, cho đến dù cầu mà chưa được nghe thì cũng đầy đủ các căn lành lớn. Dù được nghe hay không, cũng đều đã trụ trong địa vị bất thối chuyển, rốt ráo thành tựu đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác, huống là nghe rồi thọ trì đọc tụng, suy tư tu tập, vì người nói rộng, cũng khiến cho nhiều người được nghe, thọ trì đọc tụng, suy tư tu tập, lưu bố rộng rãi khắp nơi.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:

“Ta nhớ xưa kiaPhật hiệu
Sư Tử Như Ý trên trời người
Lúc ấy có vua làm thượng thủ
Đích thân đến Phật cầu tam muội
Lúc vua đại trí nghe xong rồi
Vui vẻ vô vàn không thể nói
Tự tay dâng cúng chuỗi ngọc báu
Cúng dường Như Lai Sư Tử Ý
Trong tâm suy tư phát lời rằng
Con nay quy y Vô Thượng Giác
thế gian mà làm lợi ích
Cúi xin khéo nói tam ma đề
Khi vua hưng khởi nghiệp lành xong
Chết rồi sanh lại hoàng cung đó
Lại tìm gặp được tỳ kheo Bảo
Đại đức danh vang khắp mười phương
Khi nghe thầy kia khéo thuyết pháp
Tâm sanh hoan hỷ không xưng lường
Tức dùng bảo y tối thắng diệu
Đắp thân tỳ kheoBồ Đề
Lại cùng trăm ngàn người xuất gia
Cúng dường hầu hạ tỳ kheo đó
Trãi qua suốt hết tám ngàn tuổi
Vì cầu tam muội này như thế
Thầy kia nói rồi chẳng thuyết lại
Nghe thọ thâm diệu như biển cả
Lúc ấy tâm trí đều không mệt
Cầu tịch định thù thắng như thật
Sau khi các vị đó tu hành
Được gặp chư Phật đại oai hùng
Mãn đủ sáu mươi tám ngàn vị
Lúc đó cũng nghe tam muội này
Đời khác cúng dường và hầu hạ
Sáu mươi tám ngàn ức Thế Tôn
Điều nghe thâm diệu tất tùy hỷ
Nhờ nghe Phật Sư Tử Ý thuyết
Vua y theo tu hành đầy đủ
Sau thành Phật Kiên Cố Tinh Tấn
Giáo hóa chúng sanh vô số lượng
Ai ở sanh tử đều rời bụi
Theo vua xuất gia hàng ngàn vị
Cũng đồng thành Phật hiệu Kiên Dũng
Danh đức vang khắp cõi mười phương
Nghe tên tam muội chứng Đại Giác
Huống gì lại hay vì người nói
Chẳng nhiễm trước các cõi nước
Lại nên hiển rộng diệu suy tư
Nếu tam muội do Phật diễn thuyết
Nếu biết có giảng trăm do tuần
Vì cầu Bồ Đề nên đến nghe
Nơi lời dạy không màng mệt nhọc
Công đức người nghe không thể lường
Nếu đến đó mà không được nghe
Còn được hàng ngàn phước đức tụ
Huống gì nghe rồi nghĩ, thuyết ra
Hãy nên chóng cầu tam muội này
Thường nhớ kia đủ phạm công đức
Gần gũi hầu hạ chớ sanh chán
Vị thầy nào có kinh điển này
Phải đến đó tu tập cúng dường.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12502)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11646)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12053)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11445)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12381)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53062)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35491)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21399)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14384)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16090)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16849)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13132)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12535)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19578)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18656)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12319)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15038)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15524)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17196)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20199)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14617)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13843)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22883)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14558)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18348)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11945)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11504)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15854)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18425)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant