Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

7. Phẩm Giới Hạnh Ðầy Ðủ

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8427)
7. Phẩm Giới Hạnh Ðầy Ðủ

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Giới Hạnh Ðầy Ðủ, thứ 7

Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Hộ lại bạch Phật rằng:

-Thật hy hữu đức Thế Tôn! Lại có tam muội tối thù thắng này. Bạch đức Thế Tôn! Nếu chư Bồ Tát bỏ nhà mà đi xuất gia, thâm tâm muốn thuyết và hay suy tư tam muội này, thì phải an trụ trong pháp nào để hay giảng nói và quán sát?

Phật bảo Bồ Tát Hiền Hộ:

-Này Hiền Hộ! Nếu có Bồ Tát bỏ nhà xuất gia, thâm sâu mến thích giảng rộng, lại muốn suy tư tam muội này, thì Bồ Tát xuất gia đó trước hết phải hộ trì giới hạnh thanh tịnh, giới hạnh chẳng khiếm khuyết, giới hạnh chẳng nhiễm dơ, giới hạnh chẳng ô trược, chẳng chấp giới hạnh, giới hạnh chẳng động, giới hạnh chẳng bị quở trách, giới hạnh được các bậc hiền trí khen ngợi, giới hạnh được hiền thánh mến phục. Phải nên niệm biết những giới hạnh như thế.

Này Hiền Hộ! Bồ Tát xuất gia đó làm sao được giới thanh tịnh, cho đến giới hạnh được chư hiền thánh mến phục?

Này Hiền Hộ! Bồ Tát xuất gia đó phải y theo giới Biệt Giải Thoát, thành tựu oai nghi, thành tựu các hạnh lành, cho đến thành tựu giới hạnh số nhiều như hạt bụi. Người nhìn đều kính nể cuộc sống thanh tịnh đó. Trong các giới hạnh thường nghĩ nhớ phải thành tựu. Phải tin sâu, chẳng được chấp trước. Lúc nghe pháp Không, vô tướng, vô nguyện, tâm không sợ hãi, không hối hận, lui sụt.

Này Hiền Hộ! Do nhân duyên đó, Bồ Tát xuất gia thành tựu giới hạnh thanh tịnh như thế, chẳng thấy giới hạnh, chẳng chấp trước giới hạnh, cho đến thành tựu giới hạnh được chư thánh mến phục.

Khi ấy, Hiền Hộ bạch Phật rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Giới hạnh của Bồ Tát xuất gia đó sao lại chẳng thanh tịnh, giới hạnh thiếu sót, giới hạnh nhiễm trước, giới hạnh ô trược, giới hạnh ỷ lại, giới hạnh mà người trí quở trách, giới hạnh không được chư thánh mến kính?
Phật bảo:

-Này Hiền Hộ! Nếu có Bồ Tát xuất gia chấp trước hình tướng, thọ trì giới cấm, tu nơi phạm hạnh; cứ như thế chấp giữ thọ, chấp giữ tưởng, chấp giữ hành, chấp giữ thức, mà thọ trì cấm giới, tu phạm hạnh, rồi suy nghĩ rằng: “Nay tôi trì giới, hành khổ hạnh, tu học phạm hạnh như vầy. Nguyện đời sau được sanh lên các cõi trời hoặc sanh làm người, tự tại tái sanh thọ các quả báo lành”. 
Này Hiền Hộ! Do nhân duyên đó, Bồ Tát xuất gia này thành tựu giới hạnh chẳng thanh tịnh, cho đến giới hạnh mà chư thánh không mến kính. Ðó gọi là vì cầu có, vì có sanh, vì thọ quả báo dục lạc, vì có chỗ sanh.

Này Hiền Hộ! Bồ Tát xuất gia đó nghĩ muốn thuyết tam muội này, muốn suy tư tam muội này, trước hết phải nên đầy đủ giới hạnh thanh tịnh, cho đến thành tựu giới hạnh được chư thánh kính mến, cũng niệm thường hành Bố Thí Ba La Mật, đó gọi là hạnh bố thí thù thắng, bố thí pháp, bố thí vi diệu, bố thí thật vi diệu, bố thí tinh tấn vi diệu, bố thí vô thượng, cũng thường dũng mãnh tinh tấn không dừng, chẳng bỏ trọng trách, chẳng mất chánh niệm, thường hành nhất tâm, chánh tín thanh tịnh chẳng có ganh tỵ, chẳng đắm trước thế gian lợi dưỡng danh tiếng, khất thực như pháp để nuôi thân mạng, mãi hành hạnh khất thực, chẳng nhận thỉnh riêng, xa lìa nhàm chán người đời, vui chốn A Lan Nhã, tôn sùng hạt giống thánh, kính hạnh đầu đà, dừng lời thế gian, nhưng luận việc xuất thế, đến nơi thanh vắng, điềm nhiên, chẳng nói lời giả dối, thường kính trọng người khác mà không khinh khi, trong mọi thời thường hành hạnh tàm quý, mang ơn thì biết ơn, biết rồi thì đền ơn; đối với thiện tri thức thường nhớ thân cận; không trái nghịch lời dạy của các bậc tôn sư; nếu nghe kinh điển thâm sâu như vầy, thường chuyên tâm lãnh thọ quyết không nhàm chán; đối với các vị pháp sư khởi tâm kính trọng như cha hiền, như bậc thiện tri thức, cho đến như chư Phật. Do nhờ Phật pháp vi diệuthành tựu đạo Bồ Ðề vô thượng, nên khiến tăng thêm tâm kính mến tôn trọng.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát hoặc có lúc đến chỗ các hàng Thanh Văn, nghe thuyết kinh pháp thâm sâu như thế mà đối với vị pháp sư kia không có tâm kính mến, không có tâm tôn trọng, không khởi tưởng như cha hiền, không khởi tưởng như bậc thiện tri thức, không khởi tưởng như chư Phật, không khởi tưởng như thầy giáo, không thể gần gũi hầu hạ cúng dường, thì ở nơi nào mà được nghe kinh? Phải biết người đó không thể lãnh thọ, viết chép, giải thích khiến chánh pháp được trụ thế dài lâu. Kẻ đó nếu hay thọ lãnh, biên chép, giải thích khiến chánh pháp trụ thế dài lâu, thì không có lẽ nào vậy. 

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát hoặc đến chỗ của hàng Thanh Văn, nghe giảng về pháp tăng thượng vi diệu này mà chẳng sanh tâm cung kính, chẳng sanh tâm tôn trọng, cho đến chẳng sanh kính như Phật, không thể tận tâm gần gũi cúng dường, nếu hay đọc tụng thọ trì giải thích khiến kinh điển này không chóng bị hoại diệt, thì không thể có điều đó. Vì sao? Vì không tôn trọng kinh điển này, nên pháp này chẳng bao lâu sẽ bị diệt mất.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát hoặc đến chỗ của hàng Thanh Văn, nghe giảng về kinh điển vi diệu này, mà sanh tâm kính mến, sanh tâm tôn trọng, lại khởi tâm xem như thầy giáo, xem như đức Phật, gần gũi hầu hạ cúng dường, có thể lãnh thọ, viết chép, giải thích, khiến kinh này được lợi lạc trụ lâu dài trên thế gian, thì là có lý.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát đó đến chỗ của hàng Thanh Văn, nghe giảng về kinh điển vi diệu này, mà liền khởi tâm tôn trọng, tưởng như chư Phật, gần gũi hầu hạ cung kính cúng dường. Người này tuy chưa tu học kinh điển này, mà đã tu tập; tuy chưa giải thích được, nhưng đã giải thích, khiến diệu pháp được trụ lâu dàithế gian, không bị đoạn diệt, là có thể được. Vì sao? Vì hay kính mến tôn trọng chánh pháp, nên kinh này được trụ thế dài lâu.

Này Hiền hộ! Do nhân duyên đó, nên nay Ta bảo ông rằng người đó ở nơi thuyết pháp sư, sanh tâm mến thích, sanh tâm cung kính, sanh tâm quý trọng, xem như thiện tri thức, xem như thầy giáo, xem như chư Phật, tận tâm hầu hạ cung kính cúng dường.

Này Hiền Hộ! Nếu làm được như thế thì gọi là hành những hạnh mà Ta đã hành, thọ những lời Ta đã răn dạy.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Bồ Tát xuất gia đó tất muốn giải thích tam muội này, lại muốn suy tư tam muội này, nên thường thích làm những việc ở nơi A Lan Nhã, không nên sống ở lành xóm thành ấp, xa rời bạn xấu và những chỗ nhiều mong cầu, chẳng tham ăn mặc, chẳng tích trữ lương thực, chẳng nhận tiền tài của cải, chẳng tham cầu danh thơm lợi dưỡng, chẳng tiếc thân mạng, thường nghĩ xả thân, xa rời tham trước, hằng tu quán tưởng cái chết, thường hành tàm quý, chẳng tạo các điều xấu, nhiếp thọ chánh pháp, tâm không nghi ngờ, thường niệm xả rời, chẳng chấp giữ các tướng, nên tu tâm từ, chớ giữ tâm ganh ghét oán thù, thường khởi tâm từ bi, không hành theo sân hận, an tân vui vẻ, chớ tưởng thương ghét, thường đi kinh hành, phá trừ sự che chướng của ngủ nghỉ.

Này Hiền Hộ! Bồ Tát xuất gia nếu hay an trụ pháp hạnh như thế, thì hay tu học, giải thích, suy tư tam muội Niệm Phật Hiện Tiền này.

Lúc đó, Bồ Tát Hiền Hộ lại bạch Phật rằng:

-Thật hy hữu, đức Thế Tôn! Những lời đức Như Lai thuyết về kinh điển thâm sâu vi diệu đó, thật rất thù thắng, thật vi diệu thù thắng, không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, chư Bồ Tát đời sau còn giãi đãi làm biếng ỷ lại, tuy nghe kinh điển vi diệu thâm sâu này, nhưng khởi tâm sợ hãi, hoảng hốt nghi ngờ, thối thất lớn lao, không thể phát tâm vui vẻ mến thích. Họ sẽ nghĩ rằng: “Nay tôi sẽ tu tập kinh điển của chư Phật ở cõi khác. Vì sao? Tôi nay tự biết có nhiều chướng nạn, thân ngu bịnh khổ khí lực yếu ớt, thì làm sao kham nổi tu hành theo kinh điển này?”

Bạch đức Thế Tôn! Những kẻ đó đối với pháp thâm sâu lại sanh tâm xa rời buông xả, không thể phát tâm chuyên cần dũng mãnh tinh tấn, mến thích thành tựu y theo kinh điển này.

Bạch đức Thế Tôn! Khi đó cũng có chư Bồ Tát tinh tấn cần cầu, mến thích pháp này, phụng trì pháp này, nhiếp thọ pháp này. Nếu các pháp sư thuyết pháp này, thì họ y theo lời dạy mà hành trì, hay xả thân mạng, chẳng chấp danh lợi quyền quý, chẳng cầu lợi dưỡng, chẳng tự rao bán công đức của mình, chẳng đắm nhiễm y bát, chẳng vui ở thành ấp, thường đến chỗ thanh nhàn núi rừng tịch tĩnh; vừa nghe qua pháp bảo vi diệu này thì vui mừng hớn hở, lại thường phát tâm tinh cần tu tập đầy đủ; lãnh thọ pháp môn vi diệu này, thường đọc tụng, nên thường trì niệm, suy tư nghĩa lý, nên như lời dạy mà thực hành. Trong tương lai, nơi chư Phật, họ không cầu đa văn trực tiếp, cũng chẳng cầu nơi chốn, chỉ vì thành tựu công đứcthường niệm chuyên cần tinh tấn dũng mãnh.

Bạch đức Thế Tôn! Những người đó xưa kia đã từng chư Phật, tích lũy các căn lành. Những trai hiền gái thảo đó phát tâm tinh tấn lớn lao vì nghe được pháp vi diệu này, lại phát nguyện trang nghiêm lớn: “ Con nguyện rằng dù cho thân này khô tiệt đói khát, xương tan thịt nát, lửa bỏng thiêu đốt, nhưng vẫn không ngừng hành khổ hạnh, vì muốn thành tựu theo kinh điển vi diệu này, quyết không tạm thời làm biếng giãi đãi ỷ lại, mà không nghe chánh pháp vi diệu thù thắng này, cũng chẳng không suy gẫm nghĩa lý thâm sâu, lại chẳng bỏ người khác mà không giảng giải, nhưng thường dũng mãnh tinh tấn, vì muốn nhiếp thọ chư Bồ Tát; nghe kinh điển vi diệu này của đức Như Lai, nghe rồi sanh tâm vui mừng lớn lao.

Bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngợi đại Bồ Tát Hiền Hộ
-Lành thay, lành thay, này Hiền Hộ! Ðúng như thế, đúng như thế! Như lời ông nói, Ta nay tùy hỷ.

Này Hiền Hộ! Do Ta tùy hỷ nên hết thảy ba đời hằng hà sa số chư Phật cũng tùy hỷ.

Lúc ấy, Bồ Tát Hiền Hộ bạch Phật rằng:
-Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát tại gia ở trong thế gian nghe tam muội này, muốn tự suy tư, tức có thể giải thích cho người khác, cho đến một ngày hoặc qua một đêm, người này an trụ hạnh pháp gì để được suy tư thành tựu tam muội này, rồi giảng nói cho người khác nghe?

Phật dạy:
-Này Hiền Hộ! Bồ Tát tại giathế gian đó, nếu muốn tu tập suy tư tam muội này, hoặc một ngày một đêm, cho đến trong một khoảng vắt sữa trâu, Ta nay nói cho ông nghe, người đó ở thế gian thường nên chánh tín chẳng khởi tham sân, thường nghĩ việc bố thí tùy theo của ít nhiều, nên bố thí tất cả mà chẳng mong cầu quả báo, nên quy y Phật, Pháp, Tăng, chẳng theo thiên thần, cũng chẳng lễ lạy họ, chẳng sanh tâm đố kỵ, thường niệm tùy hỷ, thường sinh sống thanh tịnh y theo chánh pháp, chẳng mến con gái, chẳng đắm vào phụ nữ, chẳng chấp trước vợ con, chẳng nhiễm nhà cửa, chẳng tích tụ tài sản châu báu, thường mến xuất gia, nghĩ việc cắt tóc, tu tám giới quan trai, hằng trụ ở ngôi già lam, tâm thường hoài tàm quý, phát tâm Bồ Ðề, chẳng nghĩ thừa khác, thấy tỳ kheo trì giới thanh tịnh tu phạm hạnh quyết không giỡn cợt mà thường hành cung kính; nếu có theo ai nghe học tam muội này thì khởi tâm kính mến vị pháp sư đó, khởi tâm tôn trọng, xem như thiện tri thức, xem như thầy giáo, xem như đức Phật, có thể cung phụng tất cả, thường nhớ ơn, hằng nghĩ cách báo ơn vì được dạy pháp vi diệu này.

Này Hiền Hộ! Lúc ở nhà, Bồ Tát tại gia phải trụ theo pháp như thế mà hành, rồi sau dạy lại tam muội đó, phải suy tư như thế, tu tập như thế.

Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Hộ bạch Phật rằng:
-Hy hữu thay, đức Thế Tôn! Hôm nay Ngài vì Bồ Tát xuất giatại gia, chánh tín thành tựu mến thích Phật pháp thâm sâu, mà tuyên thuyết diệu pháp vô thượng như vầy, để khiến họ an trụ vô số hạnh pháp như thế, rồi sau này sẽ suy tư, giải thích tam muội này. 

Bạch đức Thế Tôn! Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, tam muội này có thể được lưu truyền rộng rãi ở cõi Diêm Phù Ðề chăng? 

Phật bảo Hiền Hộ:
-Này Hiền Hộ! Sau khi Ta diệt độ, ở cõi Diêm Phù Ðề, kinh điển tam muội này trong bốn mươi năm sẽ được lưu truyền rộng rãi, rồi cuối năm trăm năm sau lúc con người sống trăm tuổi và chánh pháp đã diệt, thời của các tỳ kheo ác hạnh, thời thường phỉ báng chánh pháp, thời sự trì giới đã giảm sút, thời sự phá giới hưng thạnh, thời các quốc gia gây chiến tranh với nhau, thì sẽ có chúng sanh vẫn còn căn lành vì xưa kia đã từng gần gũi chư Phật, cúng dường tu hành, trồng các hạt giống lành; những đại trượng phu này sẽ được kinh điển này, và tam muội đây cũng sẽ được lưu truyển khắp cõi Diêm Phù Ðề; đó gọi là do oai thần gia trì của chư Phật, nên khiến cho họ được nghe biết kinh điển này; nghe rồi họ vui mừng biên chép, đọc tụng, thọ trì, suy tư nghĩa lý, rồi giảng giải cho người khác nghe, và y theo lời dạy mà tu hành.

Khi đó, Bồ Tát Hiền Hộ và các người Bảo Ðức Ly Xa, nghe Phật thuyết về lúc chánh pháp bị diệt, nên rơi lệ như mưa, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chấp tay cung kính bạch rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nguyện rằng năm trăm năm sau khi đức Như Lai diệt độ, thời con người sống trăm tuổi, thời sa môn điên đảo, thời chánh pháp sắp diệt mất, thời hủy báng chánh pháp, thời phá hoại chánh pháp, thời sự trì giới giảm thiểu, thời phá giới tăng trưởng, thời các hộ pháp chánh pháp giảm, thời kẻ hộ tà pháp tăng, thời chúng sanh ô trược lầm loạn, thời các nước giao tranh, đối với kinh điển tam muội vi diệu do đức Như Lai thuyết ra, chúng con sẽ thọ trì, đọc tụng, suy tư nghĩa lý, giải thích cho người khác. Vì sao? Vì đối với diệu pháp này, tâm của chúng con không nhàm chán, quyết không biết đủ, nên hay nghe, hay viết chép, hay đọc tụng, hay thọ trì, hay suy tư, hay tu hành, hay diễn thuyết rộng kinh điển do đức Như Lai thuyết này.

Lúc đó, con của cư sĩ thương chủ Ca Ha Ngập Ða, Na La Ðạt Ða Ma Nạp, v.v… nghe Phật nói về thời chánh pháp bị hoại diệt, nên vì chánh pháprơi lệ nức nở, và từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, cung kính chấp tay, bạch Phật rằng:

-Bạch đức Thế Tôn! Ðối với kinh điển vi diệu do đức Như Lai thuyết, chúng con hay thọ trì, nhiếp thọ bảo hộ để chánh pháp được phát triển. 

Bạch đức Thế Tôn! Chúng con sẽ hộ trì kinh điển vi diệu do đức Như Lai thuyết này, khiến cho kinh điển được rộng tuyên, lưu hành rộng rãilâu dàithế gian. Vì sao? Nếu kinh điển này được lưu hànhthế gian suốt vô lượng a tăng kỳ kiếp thì có nhiều chúng sanh sẽ y theo đó mà hành trì, thành tựu đạo Bồ Ðề vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Bạch đức Thế Tôn! Chúng con được nghe pháp chưa từng nghe, chí tâm thọ trì, suy tư nghĩa lý, giải thích cho người khác, lưu hành rộng rãi.

Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nay nghe kinh điển vi diệu thâm sâu này, mà tất cả mọi người trên thế gian đều không tin. Vì vậy, trước hết chúng con sẽ vì họ mà tạo căn lành pháp khí, rồi sau đó mới giải thích cho họ nghe.

Bấy giờ, trong đại chúng có năm trăm vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam cư sĩ nữ, nghe đức Như Lai nói về thời chánh pháp bị hoại diệt, nên vì chánh pháprơi lệ như mưa, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, cung kính chấp tay bạch Phật rằng:

-Chúng con sẽ thọ trì chánh pháp của đức Như Lai. Tuy nhiên, lúc đó chúng con xin chư vị đại sĩ thiện trượng phu hãy làm nơi chúng con y theo, hãy bảo bọc gia hộ, để đối với kinh điển vi diệu thâm sâu do đức Như Lai thuyết này, chúng con có thể giữ gìn nghĩa lý chân thật rồi y theo pháp mà hành trì. Cúi xin đức Thế Tôn phó chúc chúng con cho các vị thiện trượng phu rõ ràng. Vì sao? Bạch đức Thế Tôn! Chúng con và các vị đó có thể thọ trì giữ gìn chánh pháp.

Lúc đó, đức Thế Tôn liền nở nụ cười, phóng ánh hào quang vàng ròng. Hào quang đó bay khắp các cõi Phật trong mười phương, rồi trở về nhiễu quanh Phật ba vòng, và nhập vào đảnh của Ngài.
Lúc ấy, tôn giả A Nan suy nghĩ rằng: “Xưa nay đức Thế Tôn cười rất nhiều lần, nhưng những lần đó đều có lý do. Ta nay thỉnh hỏi nhân duyên mỉm cười của Ngài”, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, bày vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chấp tay hướng Phật, dùng kệ thỉnh hỏi rằng:

“Tâm Ngài thanh tịnh, hạnh không dơ
oai đức lớn, thần thông cao
Trên các bậc tối tôn ở đời
Hiển hiện vô cấu như vầng trăng
Thánh trí vô ngại, tâm giải thoát
Ca Lăng Tần Già, Trời Tối Tôn
Tất cả dị luận không thể động
Ðột nhiên mỉm cườinhân duyên
Thông đạt chánh chân, vì con thuyết
Hay nhiều lợi lạc, Lưỡng Túc Tôn
Nghe âm thanh vi diệu của Phật
Tất cả đều vui mừng lớn lao
Chư Phật đâu từng cười vô cớ
Phật lại phóng quang thắng hơn người
Ai hôm nay được lợi ích lớn?
Nên nay phải cười để chỉ bày
Ai nay đây chứng đắc chân thật?
Ai nay đây làm đấng pháp vương?
Ai nay đây tự làm quán đảnh?
Ai nay đây lên quả vị Phật?
Ai nay đây làm lợi cõi đời?
Ai sẽ tuyên hết tạng Phật pháp?
Ai nơi Phật trí được thường trụ?
Nên Thế Tôn ứng duyên mỉm cười”.

Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng kệ trả lời:

“A Nan, thấy đại chúng đây không?
Nhiếp hộ năm trăm từ tòa dậy
Thân tâm hoan hỷ phát tín thành
‘Chúng con sau này được pháp này’
Họ nhất tâm chiêm ngưỡng đức Phật
Ta vào lúc nào cũng như vậy
Ðồng ở trước Ta phát nguyện lớn
‘Chúng con đời sau chứng đạo này’,
Lại có tám người từ tòa dậy
Ðứng đầu tối tôn trong năm trăm
Họ ở trong thời mạt pháp sau
Vì người đời tuyên thuyết pháp này
Ta nay bảo ông lời như vầy
Trong đại chúng đây trí vô ngại
Họ chẳng phải ở một chỗ Phật
Ðứng dậy chấp tay kính Thế Tôn
Ta quán xưa kia vô lượng đời
Tám muôn chư Phật đồng thời hiện
Tám người dẫn đầu từ tòa dậy
Lại vì hộ trì diệu pháp này
Trước tám muôn ức do tha
Lại ở trước vô số chư Phật
Tâm được giải thoát, danh đức vang
Khi ấy họ cũng đã nhiếp trì
Nay lại ở trong thắng pháp Ta
Hay đứng đầu nhiếp hộ làm lợi
Giáo hóa vô số chúng Bồ Tát
Những đại nhân đoạn trừ ganh ghét
Họ sau khi Như Lai diệt độ
Nhặt xá lợi Ta, hưng cúng dường
Khéo trì các Phật sự của Ta
An trí xá lợi khắp mười phương
Dựng tháp đất bằng hay trên núi
Phó chúc trời rồng và xí điểu
Họ lại nương y vào kinh này
Mất đi đều được sanh lên trời
Sau tuy chuyển xuống làm người
Mà thường chẳng rời dòng quý phái
Khéo trì pháp Bồ Ðề của Ta
Lại phát nguyện lớn tùy bản tâm
Lúc thì vì pháp đến xứ khác
Hằng trồng kinh thâm sâu vi diệu
Sẽ ban truyền pháp cho nhiều người
Dùng tâm vui vẻ trừ ganh ghét
Cầu pháp chân thành không làm biếng
Khinh tiền tài, nói gì mến thân
Hàng phục hết thảy ngoại luận sư
Thường đem diệu pháp huệ thí người
Lúc đời không ai thọ kinh này
Cũng không đọc tụng dạy lại người
Chỉ có năm trăm hiền sĩ đây
Nay ở trước Ta từ tòa dậy
Lại tám đại sĩ Bồ Tát này
Tương lai truyền pháp ở Bắc Thiên
Hằng vui rộng tuyên nhiều lợi lạc
Hoằng truyền kinh điển thâm sâu này
Tám chánh đại sĩ làm thượng thủ
Số năm trăm này lại không tăng
Xa rời ganh ghét xả danh lợi
Tương lai hoằng truyền rộng pháp lớn
Những tỳ kheo cùng tỳ kheo ni này
Các cư sĩ nam, cư sĩ nữ
Trí khéo không ganh đăng pháp sư
Sẽ thành chánh giác đại oai đức
Ðủ thần đức không thể nghĩ bàn
Thể tướng trăm phước đức trang nghiêm
Ðược vui vi diệu trừ các khổ
Lâu nhổ gốc ba độc phiền não
Họ từ nay xả bỏ thân mạng
Quyết chẳng sanh trong các đường ác
Trong tất cả đời thường hòa hợp
Gặp đạo Bồ Ðề pháp tối thắng
Nên xả tất cả cõi xấu xa
Cũng hay mãi rời những chỗ nạn
Không thể biết ngần mé công đức
Thọ nhiều phước vô lượng như thế
Lại sẽ được gặp Phật Di Lặc
Nơi Phật thường khởi tâm hòa hợp
Cung kính cúng dường làm lợi người
Vì chỉ cầu Bồ Ðề vô thượng
Khi ấy bọn họ thường vân tập
Hầu hạ đức Phật Lưỡng Túc Tôn
Vì Bồ Ðề vi diệu chư Phật
Sẽ vượt sanh tử, lên bờ giác
Thời mạt thế pháp bị hoại diệt
Họ vẫn thường thọ trì pháp này
Ở nơi xứ sở thường tu hành
Gặp thời Phật Di Lặc hầu cận
Và họ trong đời Hiền Kiếp này
Rộng làm đuốc sáng lợi cho đời
mọi nơi họ thường hộ kinh
An trụ ba đời không khiếp sợ
Tương lai ức số nhiều chư Phật
Không thể nghĩ bàn khó biết hết
Họ đều cúng dường rộng tu hành
Thường hộ Phật sự thù thắng này
Có ai thành Bồ Ðề trước mặt
Mỗi mỗi đều đồng tu cúng dường
Mà hoặc muốn diệt độ trước hết
Ta trụ nhiều đời na do tha
Nay đây đại Bồ Tát Hiền Hộ
Cũng là bảo đức châu xuất gia
Thương chủ Ngật Ða Ca Ma Na
Thường gặp hằng sa vô số Phật
Nơi đó cũng thọ kinh vô thượng
Xưa đã qua nhiều số kiếp
Giỏi toán không thể tính hết được
Vô lượng ức kiếp ai hay biết
Nếu có chúng sanh được nghe danh
Hoặc lúc thức hoặc khi mộng mơ
Phát tiếng sư tử rống dũng mãnh
Họ làm tối tôn trong trời người
Nếu có chúng sanh nghe danh họ
Thẳng hay tín kính và tùy hỷ
Tất cả làm Phật không nghi ngờ
Hà huống cúng dường nơi thân họ
Pháp họ thọ không thể nghĩ bàn
Thọ mạng pháp trụ cũng vô lượng
Lợi ích rộng lớn không cùng tận
Công đức trí huệ cũng khó biết
Họ xưa nơi Phật khó suy lường
Thanh tịnh trì giới hằng sa số
Họ hành bố thi rộng trước Phật
Chỉ cầu Phật Bồ Đề vô thượng
Công đức họ không thể tính đếm
Nhiều kiếp tuyên thuyết không cùng tận
Trong đạo Bồ Ðề không tăng giảm
Thường niệm hộ trì kinh điển này.
A Nan nếu ai hộ kinh này
Viết chép đọc tụng và ghi nhớ
Ông nên quyết định sanh cung kính
Quyết chẳng rời năm trăm người này.
A Nan nếu ai trì kinh này
Tự sẽ chuyên tâm cầu kiên cố
Thanh tịnh cấm giới xả ngủ nghỉ
Quyết định đắc diệu tam muội này
Trong luật Ta thuyết Mộc Xoa
Các tỳ kheo học ở Lan Nhã
Nếu hành Đầu Đà chẳng xả bỏ
Ðắc được tam muội này không nghi
Tất cả thỉnh riêng hay xả hết
Nếu là mỹ vị đều đoạn trừ
Hầu thầy thường xem như chư Phật
Ai nói chẳng chứng tam muội này!
Họa tham sân si trước giác biết
Ngã mạn ganh tỵ đều xa rời
Tình không ô uế, niệm vô vi
Ðọc tụng tư duy thắng tam muội
Ý thanh tịnh, chỗ không thể nhiễm
Ðiều phục các căn ngừng oan khiên
Nhất tâm chuyên niệm thân Như Lai
Ðọc tụng thọ trì diệu tam muội
Nếu có Bồ Táttại gia
Tâm thường giữ vững việc xuất gia
Thọ trì đọc tụng khẩu nghiệp thành
Tâm thường niệm giác tam muội này
Hằng hay tu trì năm loại giới
Thọ nhiều lần giới tám quan trai
Thường ở chùa chiền bỏ đời tư
Ðọc tụng suy tư tam muội này
Chẳng đam mê đắm trước phụ nữ
Chớ thương gái nhỏ và tiền tài
Hàng cư sĩ nam thường tàm quý
Hãy nên ghi nhớ tam muội này
Chớ khởi tâm hãm hại người khác
Chỉ nhớ trừ bỏ sự đùa cợt
Không nơi đắm chấp, trụ trong nhẫn
Mà niệm suy tư tam muội này
Chớ chấp trước vào các tài sản
Hương hoa son phấn tóc mượt mà
Không nơi nhiễm trước an trụ nhẫn
Mà thường thọ trì tam muội này
Nếu tỳ kheo ni cầu kinh này
Thường cần quy kính trừ đố kỵ
Giỡn cợt cống caongã mạn
Chứng Bồ Ðề này cũng không khó
Nên phát tinh tấn trừ ngủ nghỉ
Tất cả dục cầu đều đoạn hết
Tâm mến thích pháp giữ tịnh mạng
Chỉ hay đọc tụng tam muội này
Tâm thường chẳng cùng chung tham dục
Chớ khởi sân hận, không bức não
Chẳng dùng dây ma trói chúng sanh
Chỉ nên thọ trì tam muội này
Chẳng làm theo những điều cong vạy
Chớ tham y đẹp và đồ thơm
Chớ nói hai lưỡi tách biệt người
Chỉ nên thọ trì tam muội này
Thanh sắc nam nữ chẳng rộn tâm
Lặng dứt không còn các tà niệm
Với thầy mình xem như chư Phật
Chỉ nên thọ trì tam muội này
Nơi sanh vĩnh viễn rời đường ác
Trong Phật pháp chẳng tin rỗng tuếch
Phá trừ ba cõi các chướng nạn
Nên thường thọ trì tam muội này”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12473)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10343)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12321)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11621)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28778)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12024)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12990)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11429)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52986)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35468)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21361)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10665)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19214)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12393)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26006)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13301)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14353)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16064)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13714)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16821)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17548)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13109)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12510)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11595)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11581)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14485)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20432)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18954)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18610)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12170)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13831)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14990)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15023)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13970)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15505)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11379)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17148)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14952)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20168)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14599)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13819)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11690)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15031)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12976)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22841)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14538)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11637)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13146)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16852)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18320)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11486)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15826)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12861)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18885)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18401)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant