Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Động cơ và nguyện vọng

09 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 20005)
Động cơ và nguyện vọng

ĐỘNG CƠ VÀ NGUYỆN VỌNG
Nguyên tác: Motive and Aspiration (Trích từ quyển Awakening the Mind, Lightening the Heart)
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma - Chuyển ngữTuệ Uyển

blankNhư những Phật tử, bất cứ những sự thực hành Giáo Pháp nào mà chúng ta thực hiện, cho dù chúng ta đọc lời cầu nguyện, bố thícúng dường hay lắng nghe giảng dạy, chúng ta phải bắt đầu bằng việc lặp lại những lời quy y và việc phát sinh tâm tỉnh thức[1]:

Con về nương tựa Phật, Pháp, và cộng đồng tâm linh,
Cho đến khi con đạt được thể trạng giác ngộ.
Bằng năng lực của bố thí và những phẩm chất khác[2],
Nguyện cho con đạt được quả Phật để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Những vần kệ này tóm lược cốt tủy những lời Phật dạyđặc biệt của những ai thuộc Đại thừa Phật Giáo. Hai dòng đầu dạy về quy y. Hai dòng cuối dạy về việc phát sinh tâm tỉnh thức vị tha tức là tâm giác ngộ hay tâm bồ đề.

Tất cả những ai đã quy y có một cảm giác gần gũi và tin tưởng đối với Tam BảoĐức Phật, Giáo Pháp (lời dạy của Ngài), và Tăng Già, cộng đồng tâm linh của tăng ni. Đây là nhân tố quyết định quý vị có phải là một Phật tử hay không. Nếu quý vị quy y Tam Bảo, quý vị là Phật tử; còn nếu khác đi thì không phải. Chúng ta có thể quy y ở nhiều trình độ khác nhau của sự thậm thâm, tùy thuộc trên mức độ thông tuệ của chúng ta. Càng thấu hiểu bản chất tự nhiên của Tam Bảo, chúng ta càng được thuyết phục bởi những phẩm chất đặc biệt của Tam Bảo. Sự tìm cầu nương tựa trong Ba Ngôi tôn quý của chúng ta sau đó sẽ vững vàng và sâu sắc hơn nhiều.

Cung cách chúng ta tìm cầu sự nương tựa trong Ba Ngôi tôn quý thì đa dạng. Một cách là tự phó thác chúng ta đối với Tam Bảo, xem Ba Ngôi tôn quý như những đối tượng siêu việt đối với chúng ta và tìm cầu sự bảo hộ, nương tựa, và giúp đỡ. Một cách khác là tìm cầu sự quy y trong Tam Bảo như một khuynh hướng để trở thành một vị Phật một ngày nào đấy bằng việc đạt được những phẩm chất của tri thứctuệ giác. Hai cách quy y minh chứng cho những trình độ khác nhau của dõng khí và quyết tâm. Những người nào đấy tìm cầu sự giúp đở và bảo hộ từ một đấng siêu việt trong những lúc khó khăn và nguy nan rồi thì cần nhắc nhở người ấy nhớ lại nhằm để hoàn tất bất cứ điều gì đấy mà họ đã đề ra để hành động. Những người như vậy thì không thật sự có thể hành động cho chính họ. Tuy thế, những người khác can đảm hơn. Họ có thể thỉnh cầu một sự giúp đỡ nào đấy ban đầu, nhưng rồi họ quyết tâm để hỗ trợ chính họ. Họ sử dụng bất cứ nổ lực nào cần thiết để hoàn thành nguyện ước của họ. Họ có khuynh hướng trong việc trở nên độc lập, vì thế họ hành động cần cù để thân chứng những mục tiêu của họ và loại trừ những chướng ngại rắc rối của chính họ.

Trong việc quy y, cũng có những người không can đảm lắm. Họ tự phó thác chính họ đối với Tam Bảo, nguyện cầu để họ được ban cho sự bảo vệ và nương tựa. Họ thiếu sự quả quyếtniềm tin trong chính họ để thăng tiến đến vị thế của một Đức Phật. Đây là thái độ của những người chỉ tìm cầu cho sự giải thoát của riêng họ khỏi khổ đau và tái sinh. Những ai tìm cầu sự giải thoát cho tất cả chúng sinhcan trường hơn gấp bội. Họ cũng phó thác chính họ trong Ba Ngôi tôn quý để tìm cầu sự bảo hộ cùng nương tựa, nhưng khuynh hướng chính của họ là để đạt đến thể trạng siêu tuyệt của quả Phật cho chính họ vì thế họ mới có thể phụng sự những chúng sinh khác một cách tuyệt hảo nhất. Những người như thế quyết tâm tiêu trừ tất cả những dấu vết của những cảm xúc phiền nãothân chứng những đức tính toàn hảo của một vị Phật. Mô thức quy y này là thông tuệ rộng sâu [của những bậc hiền nhân].

Bởi vì rõ rằng việc tìm cầu nương tựa có thể có nhiều hình thức và có thể được hoàn tất trong nhiều trình độ, điều thiết yếu để nghĩ về bản chất tự nhiên của Phật, Pháp, Tăng và những đức tính đặc biệt trong khi tụng niệm thể thức quy y.

Bằng năng lực của bố thí và những đức tính khác,
Nguyện cho con đạt đến quả Phật để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Hai dòng này biểu thị tâm tỉnh thức giác ngộ. Bằng việc trau dồi nguyện vọng đặc biệt này, những khuynh hướng cá nhân để đạt đến thể trạng tối thượng của giác ngộ trong sự quan tâm đến tất cả chúng sinh. Bắt đầu từ việc quy y, trong tất cà mọi hành động đạo đức hành giả nghĩ, “Tôi nên dấn thân trong những hành vi thánh thiện này vì thế chúng sinh có thể giải thoát khỏi khốn cùng và ở trong sự hòa bình hoàn toàn.”

Những hành vi tốt đẹp của hành giả không phục vụ cho tính vị kỷ. Nguyện vọng này phi thường, can trường, và chan hòa. Bằng năng lực của tư tưởng này, hành giả gieo những hạt giống và đặt nền tảng cho tất cả nhưng thứ diệu kỳ trong đời sống này và những kiếp sống sắp tới. Những dòng này chứa đựng tinh hoa và gốc rể những lời Phật dạy. Mặc dù những dòng này rất ngắn, nhưng ý nghĩa rất rộng lớn và sâu xa. Trong khi trì tụng những dòng này, chúng ta nên hướng tất cả những thực hành Phật Pháp của chúng ta, như thiền quánbố thí hay giảng dạy, để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Chúng ta không nên chú ý hời hợt đến chữ nghĩa mà thay vì thế phản chiếu trên ý nghĩa là như thế nào.

Bất cứ khi nào chúng ta thể hiện sự thực hành Phật Pháp nào, chúng ta đều bắt đầu với những dòng quy y và phát tâm tỉnh thức này. Thông thường chúng ta trì tụng ba lần, mặc dù không có luật lệ nào bắt chúng ta không được đọc tụng nhiều hơn hay ít hơn ba lần. Mục tiêu của ba lần trì tụng này là để có thể phản chiếu trên ý nghĩa trong khi đọc tụng. Qua sự thực tập này chúng ta phải có thể tác động sự chuyển hóa thái độ của chúng ta, để tô điểm tâm thức chúng ta một cách tích cực. Để làm điều này có thể cần thiết để trì tụng những dòng trên nhiều lần. Tùy thuộc vào sự săp xếp của chúng ta, chúng ta có thể thích trì tụng hai dòng thể thức quy y nhiều lần, rồi trì tụng thể thức cho việc phát sinh tâm tỉnh thức trong cùng cách như thế. Trong cách này, chúng ta có thể tập trung trên một đề tài trong một thời điểm và tiến hành sự thực tập hiệu quả hơn. Sau khi trì tụng những dòng này khoảng mười lăm lần, phải có sự thay đổi trong trái tim chúng ta. Đôi khi chúng ta có thể rất xúc động đến nổi nước mắt tuôn tràn ra.

Chỉ khi nào tiến hành trong một sự thực tập thích đáng về quy yphát tâm tỉnh thức chúng ta mới dấn thân trong bất cứ sự thực tập nào khác, chẳng hạn đọc lời nguyện cầu hay trì tụng chân ngônNăng lực của mỗi sự thực tập tùy thuộc trên phẩm chất và sức mạnh sự thực tập của chúng ta về quy y và tâm tỉnh thức. Có sự nghi ngờ rằng chỉ lập lại những lời cầu nguyện mà không có động cơ thích đáng có phải là sự thực hành Phật Pháp hay không? Có thể khônglợi ích gì hơn như việc sử dùng máy hát đĩa. Do thế, việc phát triển một động cơ tích cực là thiết yếu trong phạm vi này. Toàn bộ sự nhấn mạnh của việc thực hành tâm linh phải hướng trực tiếp đến việc tạo nên những tư tưởng cũng như hành động tích cựclành mạnh.

Khi chúng ta chuẩn bị một bửa ăn, chúng ta cần bắt đầu với thành phần chính như gạo, bột, và rau cải. Gia vị và muối được thêm vào sau để tăng thêm mùi vịTương tự thế, khi những đối tượng của sự thực hành Giáo Pháp đã được hoàn thành bẳng việc tạo nên một thái độ tình thần tích cực và lành mạnh, những sự thực tập khác như cầu nguyện, quán tưởng, và thiền tập, cũng trở nên đầy đủ ý nghĩa.

Tất cả mọi tôn giáo đều có nguyên tắc căn bản là để hỗ trợ nhân loại trở nên những con người tốt đẹp hơn, tinh tế hơn và sáng tạo hơn. Trong khi những tôn giáo nào đấy sự thực hành chính yếutụng niệm những lời cầu nguyện và đối với những tôn giáo khác chủ yếu là sự hành xác để chuộc tội, trong Đạo Phật sự thực hành chính yếu là thấu hiểu để chuyển hóacải thiện tâm thức. Điều này có thể được nhìn trong một cách khác. So sánh đến những hành vi thân thểlời nói, hoạt động tinh thầnvi tế hơn và khó khăn hơn trong việc kiểm soát. Những hành vi thân thểlời nói thì rõ ràng hơn và dễ dàng hơn để học hỏithực hành. Trong phạm vi này, những việc theo đuổi tâm linh liên hệ đến tâm thứcphức tạp hơn và khó khăn hơn để đạt được.

Điều cần yếu cho chúng ta là thấu hiểu ý nghĩa thật sự của Đạo Phật. Thật là quý báu rằng sự hấp dẫn trong Phật Giáo đang gia tăng, nhưng quan trọng hơn là việc thấu hiểu Đạo Phật thật sự là gì. Ngoại trừ chúng ta thấu hiểu giá trịý nghĩa cốt yếu của lời Phật dạy, bất cứ cố gắng nào để bảo tồn, khôi phục, hay truyền bá Phật Pháp đều như đi trên một lối mòn lạc hướng. Giáo nghĩa và sự thấu hiểu Phật Pháp không phải là điều gì đấy thuộc thân thể vật chất. Do vậy, ngoại trừ nó được hoàn thành với sự thấu hiểu thích đáng, nếu không thì những việc xây dựng chùa viện hay trì tụng kinh điển thậm chí có thể không phải là thực hành Phật Pháp. Vấn đề là việc hành trì xảy ra trong tâm thức.

Sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ thay đổi áo quần, đọc lời cầu nguyện, hay lễ lạy phủ phục là bao hàm toàn bộ sự thực hành Phật Pháp. Để tôi giải thích. Khi chúng ta thực hiện sự lễ lạy hay đi nhiễu quanh chùa viện, mọi thứ tư tưởng khởi sinh trong tâm thức chúng ta. Khi chúng ta chán nản thì một ngày rất dài, đi quanh chùa viện có thể rất là dễ chịu. Nếu chúng ta gặp một người bạn thích nói đồng hành, thời gian giống như bay đi. Có thể đấy là cuộc đi bộ dễ thương, nhưng trong ý nghĩa thật sự thì không phải là thực hành Phật Pháp. Thậm chí có những trường hợp có thể đang hành trì Phật Pháp biểu lộ bên ngoài nhưng trong thực tế chúng ta đang tạo nên những nghiệp nhân tiêu cực. Thí dụ, một người đi nhiễu quanh chùa viện mưu tính một kế hoạch lừa dối người nào đấy hay dự trù trả hận chống lại một kẻ thù. Trong tâm tư người ấy, có thể đang nói là, “Đây là cách mà ta sẽ hạ gục đối thủ của ta, đây là những gì ta sẽ nói và đây là những gì ta sẽ làm.” Tương tự thế, chúng ta có thể đang trì tụng mật ngôn thánh thiện, trong khi tâm tưởng chúng ta ấp ủ những suy tư hiểm ác. Do vậy, những gì dường giống như sự thực hành Phật Pháp qua thân thểlời nói có thể chứng tỏdối trá.

Chúng ta nói rằng khuynh hướng chính của sự thực hành Phật Pháp là để rèn luyện tâm thứcChúng ta thực hiện việc ấy như thế nào? Hãy nghĩ về những hoàn cảnh khi chúng ta vô cùng giận dữ với người nào đấy mà chúng ta muốn làm bất cứ điều gì để tổn thương kẻ ấy. Bây giờ đúng là một hành giả chân chính, chúng ta cần suy nghĩ một cách phải lẽ về điều này. Chúng ta cần nghĩ về vô số những khiếm khuyết của sân hận và các kết quả tích cực của việc phát sinh từ biChúng ta cũng phản chiếu rằng con người, đối tượng sự giận dữ của chúng ta là giống như chúng ta trong việc mong muốn đạt đến hạnh phúc và xa lánh khổ đau. Dưới những tình cảnh như thế, làm thế nào chúng ta có thể biện minh cho việc làm tổn thương người kia?

Chúng ta có thể tự nói với chính mình rằng, “Tôi tự nghĩ chính mình là một Phật tử. Thời khắc tôi mở mắt vào buổi sáng, tôi trì tụng những lời cầu nguyện quy y và phát triển tâm tỉnh thức(tâm giác ngộ). Tôi hứa nguyện hành động vì tất cả chúng sinh, và trái lại ở đây tôi đang làm cho có quyết tâm thôi thúc hung tợn và phi lý. Làm sao tôi có thể tự gọi mình là một Phật tử? Làm sao tôi có thể đối diện với chư Phật khi tôi làm một việc nhạo báng con đường của các Ngài?”

Chúng ta có thể làm tan biến một cách hoàn toàn thái độ cay nghiệt của chúng tacảm giác giận dữ bằng việc suy nghĩ trong cách này.Trong nơi chốn của chúng, những tư tưởng tế nhịdịu dàng có thể được gợi lên bằng việc phản chiếu giận dữ sai lầm như thế nào với người kia và người kia xứng đáng với sự tử tế và thiện ý của chúng ta như thế nào. Trong cách này, chúng tamang đến một sự chuyển hóa chân thật cho trái tim. Đây là Giáo Pháp trong ý nghĩa chân thực của từ ngữ. Những tư tưởng tiêu cực trước đây có thể được xóa tan và thay thế bằng cảm giác tích cực cùng từ bi cho người kia. Chúng ta nên lưu ý sự thay đổi ấn tượng này. Đây là một bước nhảy vọt đáng lưu tâm. Đấy là ý nghĩa thật sự của những gì gọi là hành trì Phật Pháp, nhưng không phải là một vấn đề đơn giản.

Khi tâm thức được tác động bởi một tư tưởng đạo đức đầy năng lực, không suy tư tiêu cực nào có thể triển khai cùng một lúc. Nếu chúng ta được thúc đẩy bởi những tư tưởng ân cầnhoan hỉ, ngay cả những hành vi dường như tiêu cực có thể cũng mang đến những kết quả tích cựcThí dụ, nói dối thông thường là tiêu cực, nhưng khi chúng ta thực hiện nó vì từ bi và một tư duy để giúp đở người nào khác, nói dối có thể được chuyển hóa thành điều gì đấy lành mạnh.

Tư tưởng vị tha của tâm tỉnh thức xuất phát từ sự thực hành bồ tát, từ ái và bi mẫn. Do vậy, trong vài trường hợp, một vị bồ tát được phép vi phạm những hành động tiêu cực của thân thểlời nói. Những hành vi xấu thông thường cho sinh khởi những kết quả không thuận lợi. Nhưng tùy thuộc trên động cơ, đôi khi những hành vi này có thể là trung tính, và vào những lúc khác chúng có thể trở thành xứng đáng một cách diệu kỳ. Đây là một số lý do tại sao chúng tôi nhấn mạnh rằng Đạo Phật quan tâm một cách cơ bản với tâm thức. Những hành vi thân thểlời nói của chúng ta chiếm lấy vai trò thứ yếu. Thế nên, phẩm hạnh hay sự thanh khiết của bất cứ sự thực hành tâm linh nào được quyết định bởi khuyn hướng và động cơ cá nhân.

Con người tự do có niểm tin trong bất cứ tôn giáo nào họ thích. Những người đối lập với tôn giáo cũng biểu hiện ra ý chí của họ. Con người lựa chọn theo đuổi một tôn giáo tùy thuộc sự thích thúthiên hướng của họ. Không có cách nào để thúc ép mọi người đi theo Đạo Phật hay bất cứ tôn giáo nào khác. Trong cuộc đời của chính Đức Phật, Ngài đã không thể làm cho tất cả mọi người Ấn Độ trở thành Phật tử. Trong một thế giới đa dạng sở thíchxu hướng, mọi người không thể đều trở thành Phật tử. Con người thụ hưởng quyền tin tưởng hay không tin tưởng trong bất cứ tôn giáo nào như nguyện ước của họ.

Đối với chúng ta điều thiết yếu là chúng ta đã chọn lựa đi theo Đạo Phậtquyết chí quy y trong Phật Bảo. Dưới những tình cảnh như thế, chúng ta bắt buộc phải tôn trọng những ngôn từ của Đức Phật. Nếu người Tây Tạng chúng tôi không tuân theo lời Phật dạy mà đòi hỏi người Trung Cộng làm như thế, thì chỉ là buồn cười. Họ từ chối Đạo Phật; tại sao họ phải tuân theo lời Giáo huấn của Đức Phật? Nếu họ nói lời dối trá và ấp ủ những hành vi lừa bịp khác, chúng tôi có thể làm gì? Nếu họ bị tràn ngập bởi thù hận, chấp trước, và vô minh, họ sẽ không vui và sẽ làm rắc rối cho người khác. Do thế, đấy là nhiệm vụ của những người Phật tử, kể cả người Tây Tạng, hành trì Giáo nghĩa Phật Pháp. Sự thực hành của chúng ta là những cảm xúc phiền nãothái độ thù địch, chấp trước, và si mê – phải được tiêu trừTâm thức chúng ta phải được tự do với những vọng tưởng này, và trên mãnh đất tâm thức của chúng chúng ta phải phát triển những đức tính tích cực.

Như những người Phật tử, chúng ta có những bức tượng hay tranh của Đức Phật trên bàn thờ ở nhà. Chúng ta đến chùa chiền hay tu viện để đỉnh lễ Đức Phật. Đây là tất cả những gì biểu lộ sự tôn kínhtin tưởng của chúng ta. Nhưng thử thách thật sự là chúng ta chân thành tuân thủ những lời Phật dạy được bao nhiêu. Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài. Ngay cả nếu chúng ta không thể tuân theo đấy một cách hoàn toàn, chúng ta phải nghiêm chỉnh tột bậc trong nỗ lực của chúng ta. Từ trong chiều sâu của trái tim chúng ta phải có một quyết tâm vững vàng để hành động trong những khuôn thước của giáo thuyết Phật Đà. Chúng ta cần bảo đảm rằng đời sống hằng ngày của chúng ta tương hợp lời xác nhận là những người Phật tử. Nếu chúng ta không thể thực hiện được những điều này, lời tuyên bố ấy sẽ là giả tạo và vô nghĩa, chúng ta hờ hửng và quên lãng những lời Phật dạy, đây là một hình thức của sự lừa dối. Điều ấy thì mâu thuẩn và đáng thương. Phải nên có sự hòa hiệp giữa những gì chúng ta nói và những gì chúng ta làm.

Khi chúng ta bắt đầu sự thực hành Phật Pháp, chúng ta lập lại lời nguyện cầu quy yvà phát triển tâm giác ngộ, nhưng cùng lúc chúng ta phải tạo nên một động cơ lành mạnh được truyền cảm hứng bởi từ ái và bi mẫn. Sự thực hành kiểu này phải được hoàn thành bởi cả thầy và trò giống như nhau. Khi tôi ngồi trên pháp tòa, tôi không được có ý tưởng, suy nghĩ về việc tôi tuyệt vời như thế nào. Tôi cũng không nên nghĩ rằng tôi là một vị Đạt Lai Lạt Ma và có thể nói bất cứ điều gì tôi thích đến những học nhân của tôi. Một thái độ như vậy là không thích hợp. Tôi chỉ là một thầy tu Đạo Phật giản dị và là một môn nhân của Đức Phật. Trách nhiệm của tôi là cố gắng tận lực để thực hiện đầy đủ giáo huấn. Khi tôi thực hành giáo lý, tôi không cố gắng để làm vui lòng hay tâng bốc Đức Phật. Sự thực của vấn đề là tôi quan tâm cho hạnh phúc và khổ đau của chính tôi. Cho dù tôi thụ hưởng hạnh phúc hay trải nghiệm khốn khó tùy thuộc hoàn toàn trong chính tay tôi. Những nhân tố nền tảng này động viên tôi để dấn thân trong việc thực hành Phật Pháp.

Đức Phật đã giảng dạy từ kinh nghiệm của chính Ngài, những gì lợi lạc về lâu về dài và những gì tổn hại. Tôi, trước hết, muốn hạnh phúchy vọng lánh khỏi khổ đau. Đây là một nguyện vọng mà sự hiện hữu của những ai vượt qua năm tháng hay thậm chí cả cuộc đời này; nó mở rộng đến những đời sống bất tận. Tôi phải nhận ra ba loại thuốc độc - - những cảm xúc phiền não của tham dục, thù hận, và si mê – sự tin tưởng rằng mọi vật tồn tại như chúng xuất hiện, một cách độc lập, và tự do, không tùy thuộc trên những nguyên nhân – là nguồn gốc của những vọng tưởng này. Để đối phó với những tư tưởng si mêchấp ngã này, tôi cần phát sinh từ ái, bi mẫn, vị tha, và tuệ trí hiểu biết tính không.

Tôi tin rằng vận mệnh của tôi hoàn toàn tùy thuộc trên đôi tay tôi. Những gì Đức Phật đã dạy có ý nghĩa vô vàn trong đời sống của tôi. Những lời của Ngài đang trở nên trong sáng hơn, và những gì Ngài đã dạy hơn 2.500 năm trước mãi mãi thích hợp. Mặc dù tôi không thể tìm hiểu tận chiều sâu tất cả những giảng dạy của Ngài, nhưng tôi có thể luận ra ý hướng của Ngài trong sự liên hệ đến những giảng giải của Ngài về hai chân lý (chân lý tối hậuchân đế, và chân lý quy ướctục đế), Bốn Chân Lý Cao Quý (khổ đau, nguyên nhân của nó, sự chấm dứt, và con đường đi đến sự chấm dứt), và v.v… Khi tôi lắng nghe và suy tư về triết lý Đức Phật đã dạy từ lâu xưa, hiếm có điều gì vô nghĩa đối với tôi. Tôi đạt được lợi lạc vô cùng từ những lời dạy của Ngài, và tôi tin rằng những người khác cũng lần lượt có thể lợi ích từ những lời của tôi. Với mục tiêu hỗ trợ này, tôi chia sẻ những ý tưởngkinh nghiệm của tôi. Khi chúng ta hữu dụng đối với những người khác, thì chúng ta đang hành động phụng sự Giáo Pháp. Giúp đỡ thậm chí chỉ một người cũng quý giá.

Đức Phật ban đầu phát triển tư tưởng vị tha và sau đó dấn thân trong việc tích tập công đức. Cuối cùng Ngài đạt đến thể trạng giác ngộ của Quả Phật. Ngài đã thực hiện thật hoàn toàn trong sự quan tâm đến những chúng sinh khác. Được truyền cảm hứng bởi tâm giác ngộ, mà điều ấy là quan tâm đến người khác hơn là chính mình, Đức Phật đã hoàn thiện việc rèn luyện trên con đường tu tập. Qua lòng vị tha của Ngài, Đức Phật đã hành động để hoàn thành sự cát tường của những chúng sinh khác. Qua hàng vố số kiếp Ngài đã kiên cường trong sự theo đuổi ấy. Ngay cả sau khi đạt đến giác ngộ, chính nỗ lực của lòng vị tha ấy đã hướng Ngài đến việc chuyển pháp luân. Do vậy chủ đề nền tảng của Đạo Phậtlợi ích cho người khác. Khi chúng ta có thể giúp người khác phát sinh đức hạnh trong trái tim của họ, làm cho họ hạnh phúcđời sống của họ đầy đủ ý nghĩa, đấy là sự phụng sự chân thật đến Đức PhậtGiáo Pháp của Ngài. Chúng ta phải chuyên cần và hướng trực tiếp những nỗ lực tuyệt hảo nhất của chúng ta trong cách này. Thế đấy, tôi tin, là việc đáp ứng đến lợi ích của người khác cũng như của chính mình trọn vẹn như thế nào.

Phong tục truyền thống của vị thầy lễ phủ phục ba lần đến pháp tòa trước khi an tọa là rất quan trọng. Mục tiêu là để ngăn ngừa sự kiêu mạn. Khi chúng ta ngồi trên tòa cao, và thuyết giảng, người ta biểu lộ tôn kính của họ đến chúng ta bằng việc đỉnh lễ đến chúng ta. Dưới những tình cảnh như thế chúng ta phải cẩn thận một cách đặc biệt. Trái lại, có một hiểm họa vô vàn của sự kiêu mạn len lén bên trong. Trong một vài trường hợp điều này đã xảy ra. Những tu sĩ nào đấy, khởi đầu rất giản dị, sau khi thấy họ có nhiều học nhân và đã đạt được một vị thế nào đấy, và họ trở nên vênh váo, dương dương tự đắc. Chúng ta không thể trách họ; đấy là kết quả của những cảm xúc phiền não của chính họ.

Những cảm xúc phiền não thì cực kỳ gian dảo và ngoan cố. Khi một người ở dưới sự thống trị của phiền não được đặt ngồi trên pháp tòa, người ấy bị khống chế bởi vọng tưởng. Khi chúng ta nghe người ấy nói chuyện, lòng tự hào của người ấy phồng to lên ngày càng dài hơn khi người ấy tiếp tục. Đây là việc các cảm xúc phiền não hoạt động như thế nào. Hậu quả của cảm xúc phiền não là đáng kinh ngạc. Chúng có thể làm cho một vị thầy bất hòa với những người khác vì tham muốn nhiều học nhân hơn. Trong những trường hợp như thế, cả sự chấp thủthù oán cùng hoạt động.

May mắn thay, có một năng lực có thể chiến đấu chống lại những cảm xúc phiền não. Đấy là tuệ trí. Tuệ trí này trở nên trong sáng hơn và sắc bén hơn khi chúng ta áp dụng phân tích và thẩm tra. Nó sinh động và dẻo dai. Trái lại, tâm thức vô minh, mặc dù nó có thể là gian giảo, nhưng không thể chống lại sự phân tích. Dưới sự thẩm tra thông tuệ, nó bị sụp đổ. Sự thấu hiểu điều này cho chúng ta niềm tin vững chắc để giải quyết những rắc rối được tạo nên bởi các cảm xúc phiền não. Nếu chúng ta nghiên cứuphản chiếu, chúng tathể đạt đến một sự thấu hiểu hoàn hảo về tuệ trí, và những cảm xúc phiền não như thái độ thù địchchấp trước, những thứ được sản sinh bởi tâm thức tin tưởng rằng mọi thứ là thật, rằng chúng tồn tại như chúng xuất hiện. Tâm thức nhận thức về sự tồn tại thật sự là cực kỳ linh động, mạnh mẽ, và gian trá. Đồng lõa gần gũi của nó, thái độ vị kỷ, là tương đồng với táo bạo và ngoan cố. Đã từ lâu lắm, chúng ta đã hoàn toàn ở dưới sự thống trị của nó. Nó tự cho là bạn bè, hỗ trợ, và bảo vệ chúng ta. Bây giờ, nếu chúng ta cẩn thậnsáng suốt, chúng ta phải phát triển tuệ trí thấu hiểu rằng mọi thứ không tồn tại như chúng xuất hiện, rằng chúng vắng bóng loại sự thật này; điều này được gọi là tuệ trí của tính không. Bằng việc sử dụng vũ khí này với nổ lực bền bỉ, chúng ta sẽ có cơ hội để chiến đầu chống lại những cảm xúc phiền não.

Trong tiến trình của sự thực tập, chúng ta cần nghĩ về những lợi ích của việc yêu mến người khác và những khiếm khuyết của tính vị kỷ. Về đường dài, tư tưởng quan tâm đến người khác sẽ chứng tỏ tính siêu việt, và tính vị kỷ của chúng ta sẽ xuất hiện trong một ánh sáng mờ nhạt. Tất cả tùy thuộc trên việc chúng ta nghiêm chỉnhcần mẫn ra sao. Nếu chúng ta có thể tự chứng tỏ bằng việc theo đuổi con đường đúng đắn với những nổ lực phối hợp, chúng ta có thể chắc chắn rằng những cảm xúc phiền não có thể được tiêu trừ.

Phật Quảmục tiêu tối hậu trong sự thực hành của chúng ta, và sẽ rất hữu ích để thấu hiểu điều này có nghĩa là gì. Tạng ngữ cho chữ giác ngộ có hai phần; phần thứ nhất liên hệ đến việc tịnh hóa và phần thứ hai là sự làm giàu thêm hay đầy đủ. Chính yếu những gì chúng ta phải tịnh hóa là những khuyết điểm của tâm thức chúng ta. Sự tịnh hóa như thế không ngụ ý sự chấm dứt lập tức các khuyết điểm này, nhưng biểu thị hành động cẩn trọng của việc áp dụng những đối trịhoàn toàn loại trừ chúng.

Bây giờ đây, những khuyết điểm mà chúng ta đang liên hệ đến là những nguồn gốc của khổ đau: nghiệp chướng và những cảm xúc phiền não cũng như những dấu vết[3] do chúng để lại. Những khiếm khuyết này có thể được loại trừ chỉ bằng việc áp dụng những đối trị thích ứng. Những dấu vết do các cảm xúc phiền não để lại làm chướng ngại con người đạt đến toàn tri toàn giácTâm thức từ bản chất tự nhiên của nó, có khả năng hiểu biết mọi thứ, nhưng những nhược điểm này che đậy hay chướng ngại tâm thức khỏi những tri giác như vậy. Loại trừ những chướng ngại này bằng việc phát triển những đối tác cần thiết được hoàn thành bởi tâm thức. Khi tâm thức hoàn toàn tự do khỏi chướng ngại, nó tự động trở nên tỉnh thức toàn diện, và hành giả thức tỉnh đến sự giác ngộ toàn triệt.

Thể trạng giác ngộ không phải là một loại thực thể vật lý nào đấy như một cư xứ thiên đàng. Đấy là phẩm chất nội tại của tâm thức khai mở trong năng lực tích cực toàn vẹn của nó. Do thế, nhằm để đạt đến thể trạng tỉnh thức này, hành giả phải bắt đầu bằng việc loại trừ những thứ tiêu cực của tâm thức và phát triển những phẩm chất tích cực từng thứ một. Đấy là tâm thức năng động áp dụng những đối trị trong tiến trình loại trừ những thúc đẩychướng ngại tiêu cực. Ở đấy đi đến một điểm khi những xúc cảm phiền nãochướng ngại tinh thầnthể không bao giờ tái diễn, bất chấp điều gì xảy ra. Cùng biểu hiện ấy, chính là tâm thức liên hệ độc nhất trong việc phát triển tuệ giáctri thức tâm linh. Tuy thế, với một ít năng lượng tích cực có thể được bắt đầu, qua quá trình diễn biến tâm thức trở nên hoàn bị tròn đầy với tri thứctỉnh thức của Phật Quả.

Mỗi tôn giáo thể giới có các đặc trưng phân biệt và những bông hoa riêng của nó. Nhưng, một cách căn bản, tất cả cùng chia sẻ những xu hướng và đối tượng chung. Kết quả, các tôn giáo đã là cội nguồn của lợi ích cho hàng triệu người qua hàng thế kỷ. Không có phủ nhận nào rằng qua sự thực hành chân thành, tín đồ tôn giáo đạt đến hòa bình của tâm hồn và trở nên những người mô phạm, khai hóatốt đẹp hơn. Họ đã tự làm cho họ thánh thiện, và cống hiến nhiều phụng sự vĩ đại cho nhân loạiTuy nhiên, nhiều vấn nạn xã hội và chính trị cũng phát sinh từ việc lạm dụng tôn giáo. Họ đấu tranh với những người khác niềm tin, thậm chí đôi khi đi đến mức độ chiến tranh toàn diện. Tuy vậy, chúng ta nên tôn trọng sự đa dạng tôn giáo bởi vì con người có những tính khíthiên hướng tinh thần khác biệt, sở thíchquan tâm bất đồng. Một tôn giáo , do thế, không thể thỏa mãn tất cả mọi người. Từ quan điểm này, trạng thái muôn màu muôn vẻ được ngưỡng mộ. 

Mỗi tôn giáo hữu dụng trong cách riêng của nó. Thật hão huyền để tưởng tượng nên chỉ có một tôn giáo cho toàn thế giới. Không phải mọi người Ấn Độ đều đã tiếp nhận Đạo Phật ngay cả trong chính thời Đức Phật tại thế. Điều này cũng đúng đối với những tôn giáo khác và những vị khai sáng nền đạo. Do vậy, tôi tin tưởng trong một sự hòa hiệp các tôn giáo, điều này là thực tiễn, có thể áp dụng, và có thể phát sinh những kết quả tích cực. Tôi ngưỡng mộ những việc làm tốt đẹp của những ai thuộc các tôn giáo khác. Đây là một cung cách thân thiện để kết giao bè bạn. Tôi có nhiều bằng hữu Ki Tô Giáo, Hồi Giáo, và Ấn Độ Giáo. Trong phạm vi này, tiến hành những cuộc bàn cải và tranh luận triết lý dường như vô nghĩa đối với tôi. Điều gì tốt lành của việc thử thách vị thế giáo thuyết của những tín ngưỡng khác làm nên được?

Thay vì nuôi dưỡng sự ganh đuatranh luận qua lại giữa tín đồ các tôn giáo, tôi đề nghị rằng chúng ta nên học hỏi từ những tín ngưỡng khác. Tu sĩ Phật Giáo Tây Tạng có thể thực hành những thí dụ của người Ki Tô Giáo trong việc phục vụ xã hội. Nhiều người đã cống hiến đời sống của họ để phụng sự những người đáng thương, nghèo cùng, và bị áp bức. Ở Calcutta[4], thí dụ có Mẹ Theresa. Nhiều Ki Tô hữu chăm sóc những người bệnh hủi mà hoàn toàn không quan tâm đến đời sống của chính họ. Có tu sĩ Tây Tạng nào làm việc đó không? Gần một nghìn năm trước, đại sư Tây Tạng Dromtonpa[5] thật sự đã làm việc ấy và đã đánh mất chân tay của ngài. Gần đây nhất, Tehor Kyorpon Rinpoche cũng chăm sóc những người khổ đau vì bệnh phong cùi. Do vậy, thay vì đối đầu, học hỏi với nhau sẽ thông tuệ hơn và có ý nghĩa hơn. Trong cách này, giáo đồ của mọi xu hướng tín ngưỡng có thể đóng một vai trò tích cực trong việc tạo nên thanh bình và hòa hiệp trong thế giới của chúng ta.

Bởi vì mọi người khác nhau và thiên hướng của họ đa dạng, nên Đức Phật đã dạy những quan điểm triết lý muôn màu sắc. Mục tiêu hoàn toàn trong giáo huấn của Ngài là để lợi ích chúng sinh, cuối cùng đưa họ đến hòa bình và giác ngộ. Giáo huấn của Đức Phật không phải là một lý thuyết cứng nhắc đòi hỏi tất cả môn đồ phải tuân thủ duy nhất và cùng một lý thuyết triết học. Trái lại, Đức Phật đưa ra nhiều trình độ khác nhau của việc giải thích để phù hợp với những trình độ thông tuệtính khí tinh thần đa dạng của đệ tử. Kết quả, ở Ấn Độ, bốn trường phái tư tưởng quan trọng đã hình thành. Thậm chí trong bốn trường phái tư tưởng chính, cũng có vô số các chi phái phụ.

Điều quan trọng là phải nhớ rằng tất cả những gì Đức Phật đã dạy là muốn giúp chúng sinh và hướng dẫn họ trên con đường tâm linh. Giáo huấn của Ngài không phải là những ức đoán trừu tượng mà là bộ phận của tiến trình và kỷ năng cho việc chiến đấu với những cảm xúc phiền não. Chúng ta có thể nhận thức những thích hợp của các đối trị cho những cảm xúc phiền não khác nhau từ kinh nghiệm riêng của chúng ta. Đức Phật đã dạy rằng, để chống lại sân hậnthù oán chúng ta nên thiền quán trên từ ái. Đặt chú ý trên khía cạnh gớm ghiếc của đối tượng phục vụ cho việc làm xao lãng sự vướng mắc đến đối tượng. Có nhiều lập luận hợp lý để cho thấy rằng hiện tướng của sự tồn tại cố hữu (có tự tính) là một sai lầmNhận thức của sự tồn tại cố hữu là một loại si mê, và tuệ trí thân chứng tính khôngđối thủ trực tiếp của nó.

Từ những giáo huấn như thế, chúng ta có thể kết luận rằng cảm xúc phiền não chỉ là những vọng tưởng tạm thời của tâm thức và chúng có thể được nhổ rể một cách hoàn toàn. Khi tâm thức hoàn toàn tự do khỏi những nhiễm ô, năng lực bản chất chân thật tự nhiên của nó – trong sángtỉnh thức – được khai mở một cách hoàn toàn. Khi sự thấu hiểu những điều này được làm phong phú, hành giả đi đến hiểu rõ giá trị khả năng của việc đạt đến niết bànPhật Quả. Điều này xảy đến như một sự phát giác diệu kỳ.

Chúng ta không phải xem những lời Đức Phật như điều gì đấy thiêng liêngchúng ta không thể khảo sát. Trái lại, chúng ta tự do để thẩm tra và xác minh giáo huấn của Ngài. Hành giả có thể nếm mùi vị những lời Phật dạy bằng việc đem chúng vào thực hành. Như một kết quả của kinh nghiệm cá nhân, hành giả đạt được sự thuyết phụcniềm tin trong giáo huấn. Điều này, tôi nghĩ, là đặc điểm vô song của Đạo Phật. Trong những tôn giáo khác lời của Thượng Đế hay đấng tạo hóa được xem nhưtuyệt đối.

Có hai mục tiêu chính của con đường tâm linh trong phạm vi Đạo Phật. Đây là sự tái sinh cao thượng và những gì được biết là phẩm hạnh tốt đẹp rõ ràng, những điều liên hệ đến giải thoát khỏi tái sinh và tiếp cận sự giác ngộ hoàn toàn. Thật là mê ly để nghe một giải thích về những phương pháp chi tiết cho việc đạt đến những mục tiêu này. Môn đồ không bị đòi hỏi phải phụng thờ Đức Phật nhằm để đạt đến sự tái sinh cao quý. Nhưng được giải thích rằng sự tái sinh cao quý có thể đạt được bằng việc thực hành đạo đức của việc từ bỏ những hành vi bất thiện. Một sự chỉ dẫn như vậy là thực tiển và vững chãi một cách hợp lý. Do vậy, một cá nhân muốn đạt được sự tái sinh cao quý, như việc sinh ra như một con người, phải tránh những hành vi bất thiện.

Bây giờ chúng ta được sinh ra như một con người thành côngđẹp đẽ, người thụ hưởng một đời sống trường thọ, có những sự trao truyền vững chãi sâu xa. Để trở nên thịnh vượng trong tương lai, chúng ta cần thực tập bố thí trong kiếp sống này. Nếu chúng ta muốn thân tướng đoan chính với sự duyên dáng cá nhân, chúng ta phải được hướng dẫn thực tập kiên nhẫnbao dung. Nhằm để thụ hưởng một đời sống trường thọ, chúng ta được chỉ dạy không tổn hại sự sống của những chúng sinh khác mà làm những gì chúng ta có thể giúp đỡ họ. Đây là những nguyên nhân và kết quả liên hệ một cách hợp lý với nhau.

Với sự tôn trọng thích đáng những tôn giáo khác, tôi tin tưởng rằng chỉ có Đạo Phật mới hướng dẫn giáo đồ của mình phát triển niềm tin và sức thuyết phục trên căn bản của luận lý [logic] và lý trí. Chắc chắn không có sự ép buộc hay thúc đẩy tin tưởng. Thực tế, một sự tiếp cận dựa trên lý trí được tôn trọng cao độ. Đức Phật đã từng nói rằng một cá nhân đạt đến sự tái sinh cao hơn bằng việc tạo nên những hành động tích cựctừ bỏ những hành vi tiêu cực như giết hại, trộm cắp, v.v… không phải bằng việc chỉ cúng dường hàng nghìn đèn bơ đến Đức Phật. Không phải chỉ niềm tin cho phát sinh những kết quả diệu kỳ, mà là để tâm tư đến những nguyên nhân đúng đắn.

Hãy để chúng ta thẩm tra một thí dụ đặc thù. Đức Phật đã hướng dẫn chúng ta thực tập nhẫn nhục do thế chúng ta sẽ được tái sinh như những con người tướng tốt. Sự biểu lộ đã rõ ràng. Khi một người sân hận, đôi mắt người ấy phồng lên và gương mặt phẩn nộ, cho dù người ấy thường có một khuôn mặt duyên dáng hay không. Không ai muốn ở gần những người sân hận, trái lại khi người nào đấy mĩm cười, chúng ta thích thú, ngay cả nếu đấy là một người xa lạ.

Những nền tảng giáo huấn của Đức Phật quan tâm việc quán chiếu luật nhân quảthực tập Bốn Chân Lý Cao Quý. Do vậy, những ai khao khát hạnh phúc, thành công, và giải thoát rốt ráo cần tôn trọng triệt để những nền tảng này. Nếu chúng ta muốn những kết quả tích cực, chúng ta phải chú trọng những nguyên nhân đúng đắn của nó. Điều này có thể được soi sáng một cách đơn giản sau đây. Khi chúng ta muốn cải thiện hoàn cảnh tài chính, thật là khờ dại nếu cứ ôm giữ tiền bạc ấy và dấu nó dưới thắt lưng của chúng ta. Nó sẽ không tự tăng trưởng; chúng ta phải đầu tư nó. Điều này có nghĩa là ban đầu chúng ta phải lìa bỏ tiền bạc của chúng ta [qua việc đưa nó vào kinh doanh]. Chúng ta, do vậy, thấu hiểu luận lý của Đức Phật khi Ngài nói rằng thật quan trọng để thực hành bố thí nếu chúng ta muốn trở nên giàu có trong những kiếp sống sau. Từ những thí dụ như vầy, chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng chúng ta có thể tin tưởng những lời của Đức Phật. Những gì Ngài dạy từ kinh nghiệm thân chứng của chính Ngài là thích đánglợi lạc cho mỗi chúng ta.

Nguyên tác: Motive and Aspiration (Trích từ quyển Awakening the Mind, Lightening the Heart)
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữTuệ Uyển
Ẩn Tâm Lộ ngày 01/06/2011

[1] Tâm tỉnh thức vị tha tức là tâm giác ngộ hay tâm bồ đề -bodhicitta

[2] Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtuệ trí.

[3] Chủng tử nghiệp hay hạt giống phiền não

[4] Tên hiện tại là Kolkata, thủ phủ của tiểu bang Tây Bengal, và cũng là thủ đô thương mại của Đông Ấn Độ.

[5] Dromtonpa (AD 1004-1064) là một cao đồ của Atisa và là một trong những đạo sư truyền thừa của dòng Kadampa.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11648)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12079)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10777)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15358)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11259)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12120)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10630)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14854)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11854)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11648)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12779)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13638)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18028)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11184)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9092)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13071)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15329)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14163)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24623)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant