Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương hai mươi ba

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9804)
Chương hai mươi ba

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI BA

132.ÂM:

Phục thứ: "Tu Bồ Đề! Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ, thị danh A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

NGHĨA:

Lại nói tiếp: "Này Tu Bồ Đề! Pháp vốn bình đẳng, không có cao thấp, mới gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Câu thị pháp bình đẳng vô hữu cao hạ đây là viết theo kinh Kim Cang  đại bổn.

Nói pháp  đây là chơn tánh. Chơn tánh có chi là pháp, chỉ cưỡng danh vậy thôi.

Trên từ chư Phật dưới thì loại bò, bay, máy, cựa, cũng đồng một cái chơn tánh, cho nên nói: "Bình đẳng không có cao thấp", là sắc thân thì có cao thấp, mà chơn tánh thì không chi cao thấp cả.

Tạ Linh Vận giải: Người không quí tiện, pháp không tốt xấu lộng lộng bình đẳng là nghĩa Bồ đề.

Triệu Pháp sư  giải: Rõ đặng cái pháp thân  Bồ đề; ở trong  sáu đường  cũng không giảm kém, ở trên chư Phật cũng chẳng tăng cao. Ấy mới là bình đẳng  Vô thượng Bồ đề.

Ông Chơn Võ thuyết kinh Báo Phụ Mẫu Ân Trọng có câu: "Vật không bình vật đặng, duy có nước là không động mới bình vật đặng; vật không cân vật đặng, duy có cái cân là chí công mới cân vật đặng. Bình thì không cao thấp, cân thì chẳng trọng chẳng khinh".

Lý Văn Hội  giải: Thị pháp bình đẳng v.v...phàm phu chẳng biết tự tánh, vọng sanh phân biệt cao thấp; nói Phật là cao, chúng sanh là thấp. Bực Bồ Tát tỏ ngộ, nhơn pháp đều không. Trên thì chư Phật dưới đến loài kiến mối đều có tánh Phật, không có phân biệt. Cho nên cả thảy pháp đều bình đẳng không có chi là cao thấp.

Huỳnh Bá Thiền sư giải: Bằng coi Phật là có tướng thanh tịnh quang minh, giải thoát, coi chúng sanh là có tướng nhơ trược, mờ tối, sanh tử, nếu hiểu như thế, dầu cho cả hằng hà sa số kiếp rồi cũng không đặng đạo  Bồ đề.

Lại nói: Nếu lòng bình đẳng không phân cao thấp, thì với chúng sanh, chư Phật, thế giới, non sông, có tướng, không tướng, khắp cả thập phương thảy đều bình đẳng, không tướng  ngã, nhơn. Ấy là lòng bổn nguyên thanh tịnh, thường đặng viên mãn sáng suốt vậy.

Phó Đại Sĩ  giải:

Tụng:

Thai thấp đồng chơn tế, Bò bay thể cũng như.

Pháp nào chia bỉ thử, Lý hà có thân sơ.

Tướng ngã nhơn nên diệt, Chấp cao hạ đáng trừ.

Tính bình đẳng rõ thấu, Cả thảy nhập Vô dư.

133.ÂM:

vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả.

NGHĨA:

Bởi không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Sở dĩ kêu là Vô thượng Chánh giác  là trong chơn tánh không bốn tướng  ngã, nhơn, sanh, thọ. Bốn tướng ấy là bởi nghiệp duyên hiện ra, chơn tánh thì bình đẳng mà há có bốn tướng ấy sao? Cho nên nói: Vô thượng Chánh giác.

134.ÂM:

Tu nhứt thế thiện pháp, tức đắc, A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

NGHĨA:

Tu cả thảy pháp lành, tức là đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Nhứt thế thiện pháp  là cái pháp của Phật dắt dẫn chúng sanh tỏ ngộ chơn tánh. Tu hành theo pháp ấy, thì đặng cái chơn tánh  Vô thượng Chánh giác.

Đã nói tánh vốn của ta sẵn có, thì há cho là "đặng", đặng sao? Phàm nói đặng là đều đặng ở ngoài, còn chơn tánh thì không phải là đặng ở ngoài, nên chẳng nói là đặng cho đặng. Nhưng mà nói là đặng là bất đắc dĩ nên phải cưỡng danh vậy thôi.

Lý Văn Hội giải: Tu nhứt thế thiện pháp là: Bằng  không lìa các tướng mà tu hành, quyết không đặng  giải thoát. Chỉ phải lìa các tướng mà tu pháp lành, thì mới đặng cái đạo Vô thượng Chánh giác  cho.

Lại nói: Bằng người đối với cả thảy các việc không nhiễm trước, với cả thảy cảnh không của động lay, với cả thảy pháp không chấp bỏ, với cả thảy thời, thường làm việc phương tiện tùy thuận theo chúng sanh, khiến cho đều hoan hỷthuyết pháp cho chúng sanh tỏ ngộ chơn tánh Bồ đề, mới gọi là tu pháp lành.

Xuyên Thiền sư giải: Non cao, nước sâu, mặt trời mọc, mặt trăng lặn.

Tụng: 

Tăng ấy Tăng, mà tục ấy tục,

Vui thì cười cợt, buồn thì khóc.

Nghĩ suy thấu đáo các điều này,

Hai số ba mươi là sáu chục.

135.ÂM:

Tu Bồ Đề! Sở ngôn thiện pháp giả, Như Lai thuyết: tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp.

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Gọi là pháp lành ấy, Như Lai nói chẳng phải pháp lành, chỉ cưỡng danh là pháp lành".

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Phật lại bảo ông Tu Bồ Đề: Chỗ gọi pháp lành ấy, là chẳng phải pháp lành bổn lai vốn không có cái pháp lành ấy, bởi mượn đặng khai ngộ cho chúng sanh cho nên cưỡng danh là pháp lành.

Nhan Bính giải: Chia hai đầu thì có ba mươi sáu thứ đối với nhau, như: lành đối dữ, có đối không, sanh đối tử, đi đối về, động đối tịnh, nói đối nín, hơn đối thua, cao đối thấp v.v... Còn không chia ra thì gọi là cái pháp bình đẳng, cũng gọi là Vô thượng Chánh giác, bởi không có lòng chấp bốn tướng. Tu cả thảy pháp lành, thì đặng đạo  A nậu Bồ đề.

Sở dĩ nói chẳng phải pháp lành là kẻ phàm phu chấp dữ, bực Thinh Văn chấp lành. Nếu không lìa pháp lành thì lạc vào hai đầu, đâu phải bình đẳng!

Lý Văn Hội giải: Chẳng trụ tướng chưa phải là pháp lành, phước  Vô lậu  mới là pháp lành.

Kinh Pháp Hoa có nói: Lành trước, lành giữa và lành sau.

Trước là khi phát lòng lành, phải mỗi niệm tinh tấn, không sanh lòng nghi hoặc giải đãi.

Giữa, là thường tu cả thảy pháp lành, khiến cho tỏ ngộ chơn tánh, chẳng chấp các  pháp tướng.

Sau, là bỏ các pháp lành, làm cho cái lòng không chấp bỏ, thương ghét, cả thảy lành dữ phàm Thánh đặng bình thường vô sự.

Cho nên nói: "Chẳng phải pháp lành, chỉ cưỡng danh là pháp lành".

Cổ Đức có nói:

 

Đạo là tỏ ngộ tánh bình thường,

Đói phải ăn cơm, buồn phải ngủ.

 

Lại nói: Cái lòng bình đẳng quảng đại như thế, cái trí diệu quan sát như mặt nhựt sáng suốt; thể dụng đến thế ấy, tức là cảnh giới của Phật.

Xuyên Thiền sư  giải: Bề ngoài rực rỡ hoa đào, trong bụng lôm chôm gai góc.

Tụng: 

 

Ác chẳng phải ác,

Thiện chẳng phải thiện.

Lịnh tướng chỉ huy,

Đoàn binh trực tiến.

Khi thì lên chót núi Tu Di,

Lúc lại vào đền vua Thập điện.

Thấy cả chúng sanh chỉ gật đầu,

Đại bi tay mắt nhiều phương tiện.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15593)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 15032)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14869)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13289)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14461)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20227)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18448)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30769)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12428)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15527)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13780)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13955)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13553)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14491)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13733)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16739)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15395)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31265)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18844)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 15024)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14621)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14601)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13816)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19704)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14457)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14530)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14737)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14788)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17942)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13600)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13733)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14979)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14192)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16462)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15360)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13521)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13185)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13294)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13017)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14112)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14729)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14250)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14642)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13029)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13817)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13281)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13773)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14708)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14783)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13313)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12865)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13769)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13700)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13351)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13910)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13718)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12630)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14852)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12890)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12471)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant