Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương hai mươi mốt

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9343)
Chương hai mươi mốt

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT

127.ÂM:

Tu Bồ Đề! Nhữ vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương hữu sở thuyết pháp, mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? - Nhược nhơn ngôn: Như Lai hữu sở thuyết pháp, tức vi báng Phật; bất năng giải ngã sở thuyết cố.

NGHĨA:

Này Tu Bồ Đề! Ông chớ nói Như Lai có tưởng như vầy: "Ta nên có thuyết pháp. Chớ tưởng như thê">.

 Bởi cớ sao? - Nếu ông mà nói: "Như Lai có thuyết pháp, tức là chê Phật; đâu có tỏ nghĩa của Ta đặng".

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Lòng đã thanh tịnh, nói nín đều như, gặp duyên thì thí, duyên qua rồi thì thôi.

Trương Vô Tận giải: Không có pháp, lấy chi mà nói "không"? Không có người lấy chi mà thuyết pháp? Ấy là tùy cái lòng sanh diệt chẳng đồng, nên mới có pháp có thuyết!

Bằng chấp cái lòng có sanh diệtthuyết pháp, là khiến cho cả thảy những người chẳng thấy đặng tự tánh; tức là chê Phật. Chỉ không có lòng sanh diệt mới thuyết pháp đặng cho.

Xuyên Thiền sư giải: Vậy là phải, mà Đại tạng, Tiểu tạng bởi nơi nào mà ra?


Tụng:

Có thuyết thì khinh báng,

Mà không thuyết chẳng thông.

Vì ngươi truyền lý nhiệm,

Ác mọc ánh non Đông.

128.ÂM:

Tu Bồ Đề! Thuyết pháp giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp".

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Thuyết pháp đó, không có pháp chi mà thuyết, chỉ cưỡng danh là thuyết pháp vậy thôi".

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Nhược nhơn ngôn v.v.. là Phật vốn chẳng thuyết pháp, bởi chơn tánh không có pháp chi mà thuyết! Nếu nói Phật vốn có thuyết pháp, thì cái chí còn chấp tại nơi pháp.

Mà chí của Phật, há phải tại nơi pháp đâu? Vậy nên nói: chê Phật. Chẳng rõ đặng cái thuyết của Phật là vậy.

Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Thuyết pháp thiệt không có pháp chi", pháp bổn lai không có, vì sự trừ khử ngoại vọng cho chúng sanh mà thuyết, chớ có pháp chi chơn thiệt đâu! Nếu chúng sanh đã ngộ thì chẳng dùng pháp nữa. Cho nên nói: Chỉ cưỡng danh là thuyết pháp vậy thôi.

Bài này đồng nghĩa với câu "Không có pháp chi mà Như Lai nói", trong phần thứ bảy và câu "Như Lai không có chỗ chi thuyết pháp", trong phần thứ mười ba.

Nhưng mà đến đây còn lập lại nữa là vì những thính giả đến sau.

Nhan Bính  giải: Trọn ngày ăn cơm chẳng hề cắn lấy một hột gạo, trọn ngày mặc áo chẳng hề mang lấy một sợi tơ. Sở dĩ Phật ta thuyết pháp, thuyết tới thuyết lui trong 49 năm, chớ hề nói lấy chữ. Duy có người đồng đạo mới biết đặng cái câu: "Nếu nói Như Lai có chỗ thuyết, tức là chê Phật, và chẳng rõ nghĩa của Ta đặng" thì dầu có thuyết cho đến hoa trên không rớt vãi xuống, cũng lạc vào pháp môn thứ hai (chẳng phải pháp) mà thôi.

Duy có hạng người  Tọa đoạn  (không tâm) thâu mười phương lại làm một mảnh, không còn ngôn thuyết gì mà nói cho đúng, như vậy mới thiệt là thuyết pháp. Sở dĩ nói: Tường vách và miểng sành ưa mùi thiền phới phở là vậy.

Người tiền bối có tụng:

 

Rất kỳ thay rất kỳ thay!

Thuyết pháp vô tình pháp quá hay;

Lý nhiệm tai nghe chưa dễ thấu;

Nghe bằng con mắt mới anh tài.

 

Tạ Linh Vận  giải: Giáo đạo, truyền đạo cũng nghĩa là thuyết pháp. Trước đây nói không có chi thuyết, là không phải làm thinh mà chẳng nói, chỉ không để ý mà thuyết, thì thuyết đầy cả thiên hạ cũng không lỗi với cái lý pháp. Không để ýkhông chấp các tướng, lòng không chỗ trụ.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng: Tướng lặng danh liền dứt,

Lòng yêu cảnh ắt dang.

Lại qua đều chẳng thấy.

Nói nín thảy không can.

Trí tới viên thành lý.

Thân vào pháp tánh thường.

Nhị đề cần ấn chứng,

Vốn thiệt chỗ tân lương.

Xuyên Thiền sư giải: Gậy sừng thỏ, quạt lông rùa.

Tụng:

Lâu đời ngựa đá phát hào quang,

Trâu sắt tuông pha hét hộc vang.

Chỉ dặm hư không không ảnh tích.

Ẩn nơi Bắc Đẩu mấy ai tường!

 

Nói thử coi: thuyết pháp hay chẳng thuyết pháp?

129.ÂM:

Nhĩ thời, Huệ Mạng Tu Bồ Đề...

NGHĨA:

Khi ấy, Huệ Mạng Tu Bồ Đề...

 

Giải : Sớ Sao  giải: Nhĩ thời  là đương lúc khởi hỏi. Huệ Mạng: là ông Thiện Hiện thông trí hải của Phật, thấu rõ pháp môn, tỏ ngộ lý Vô sanh, biết đặng cái mạng của bổn nguyện: chẳng phải đi, chẳng phải lại. Cho nên nói: "Huệ Mạng Tu Bồ Đề".

Trần Hùng  giải: Chữ  Huệ Mạng Tu Bồ Đề, thấy ở trong kinh  Pháp Hoa, phẩm  Tín giải: "Huệ  là nói về đức, Mạng  là nói về sống lâu", là cái tên riêng của bực Trưởng lão.

Nhan Bính giải: Huệ Mạng  là đủ cái tánh trí. Cho nên nói: "Thiên mạng chi vị tánh", nghĩa là Mạng trời gọi là tánh (Câu này ở sách Trung Dung).

130.ÂM:

Bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh, ư vị lai thế văn thuyết thị pháp, sanh tín tâm phủ?". Phật ngôn: "Tu Bồ Đề! Bỉ phi chúng sanh phi bất chúng sanh. Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Chúng sanh, chúng sanh giả, Như Lai thuyết phi chúng sanh thị danh chúng sanh".

NGHĨA:

Bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Có những chúng sanh ở đời vị lai nghe nói pháp này, có sanh lòng tin chăng?".

 Phật nói: "Tu Bồ Đề! Nó chẳng phải chúng sanh, nhưng chẳng phải là không phải chúng sanh.

 Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Chúng sanh, chúng sanh ấy, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, chỉ cưỡng danh là chúng sanh".

 

Giải : Sớ Sao  giải: Phật nói chẳng phải chúng sanh là đều đủ cái tánh chơn nhứt, đồng nguyên với Phật, cho nên nói: Chẳng phải chúng sanh.

Phi bất chúng sanh là bỏ chơn theo vọng, làm mất linh tánh của mình, cho nên nói: Chẳng phải là không phải chúng sanh.

Vương Nhựt Hưu  giải: Trong phần thứ hai có nói: Mạng là sống lâu, thọ  là già. Nói  Huệ Mạng là ông Tu Bồ Đề đã đặng  Huệ nhãn  và tuổi già.

Đến đây Tu Bồ Đề lại nói: "Vả có chúng sanh đời sau nghe thuyết pháp này, có sanh lòng tin chăng?". Phật nói: "Chẳng phải chúng sanh, chẳng phải là không phải chúng sanh", lại e người nghe pháp lầm nhận chúng sanh là có thiệt, nên nói chẳng phải chúng sanh, là bởi trong nghiệp duyênhiện ra, nghiệp hết thì dứt, có chi là chúng sanh chơn thiệt đâu. Nhưng mà có cái thân của chúng sanh hiện tại đó, thì cũng chẳng đặng gọi là chẳng phải chúng sanh. Cho nên nói: Chẳng phải là không phải chúng sanh, là hư vọng chớ chẳng phải chơn thiệt.

Phật lại hỏi: "Bởi cớ sao", là bởi cớ sao chẳng phải không chúng sanh, rồi tự đáp mà bảo ông Tu Bồ Đề: "Chúng sanh, chúng sanh" là phàm làm chúng sanh là cả thảy chúng sanh.

Như Lai thuyết v.v... là cả thảy chúng sanh, Phật đều nói là chẳng phải chúng sanh chơn thiệt, chỉ hư danh là chúng sanh vậy thôi.

Ấy là Phật tự nói, mà lại nói Như Lai nói, thì chư Phật cũng nói như vậy.

Nhan Bính  giải: Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Chúng sanh đời sau nghe thuyết pháp này, sanh lòng tin chăng?".

Đáp : "Chẳng phải chúng sanh, chẳng phải là không phải chúng sanh", là bởi chúng sanh thuộc về có, còn chẳng phải chúng sanh thuộc về không.

Tánh của chúng sanh vốn đồng hư không, không lạc vào hai thứ  tà kiến  có và không, nên Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, chỉ cưỡng danh là chúng sanh. Cho nên Phật thường nói: "Ta chẳng dám khinh bọn ngươi, bọn ngươi đều đặng làm Phật. Vậy thì, Phật ta chưa hề khinh chúng sanh bao giờ".

Trí Giả Thiền sư  giải:

Tụng:

Chớ cho rằng có nói,

Chớ nói diệu vô cùng.

Nói rõ ràng khi Phật,

Đạo mầu nhiệm tại trong.

Nhiều lời càng khó hiểu,

Ba thể xét đều không.

Tỏ ngộ trong giây phút,

Chẳng sanh chẳng thỉ chung.

 

Xuyên Thiền sư giải: Lửa nóng, gió động, nước ướt, đất cứng.

Tụng:

Nay không thành đặng ngựa truy phong.

Ác hóa loan thiệt khó mong.

Tuy vậy chớ cho may mảy niệm.

La, lừa thiên vạn ở nơi trong.

 

Ông Linh U Pháp sư gia thêm, từ chữ  Huệ Mạng, Tu Bồ Đề, đến bài này có 62 chữ; việc ấy hồi đời Trường Khánh nhà Đường năm thứ hai (822), hiện nay (đời nhà Minh) ở tại Hào Châu có ghi trong trong bia đá, trước chùa ông Chung Ly.

Ông Lục Tổ đã có giải ở bài trước nên không giải, nhưng cũng ghi vào đây.

Lý Văn Hội giải: Bài này là của đời Ngụy dịch ra, nguyên của ông Tăng ở đời vua Trường Khánh (811) là Linh U Pháp sư, vào Minh phủ nhờ Minh Vương chỉ ra. Đời Ngụy dịch thì còn, mà đời Tần dịch thì không còn.

Như kính tin Phật pháp thì bị trước về  Thánh kín. Ấy là chẳng phải chúng sanh; bằng tin Phật pháp thì bị trước về  phàm kiến. Ấy là chẳng phải là không phải chúng sanh.

Bằng khởi ra hai thứ  tà kiến  ấy, thì chẳng rõ lý trung đạo. Vậy thì phải làm sao cho phàm Thánh đều bỏ, chẳng trụ hai đầu mối là kiến giải chơn chánh. Cho nên nói: Chúng sanh, chúng sanh, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh chỉ cưỡng danh là chúng sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15609)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 15052)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13316)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14504)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20270)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18487)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30791)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12464)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13801)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13978)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13573)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14521)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13777)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16776)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15438)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31298)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18878)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 15055)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14664)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14625)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13845)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19744)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14489)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14566)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14772)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14818)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17993)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13631)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13755)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15003)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14211)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16491)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15387)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13566)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13205)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13322)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13042)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14141)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14761)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14291)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14661)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13057)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13826)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13298)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13804)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14735)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14840)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13355)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12888)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13785)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13728)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13379)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13928)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13736)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12668)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14879)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12909)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12513)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant