Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương ba mươi

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9836)
Chương ba mươi

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG BA MƯƠI

151.ÂM:

Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn dĩ tam thiên đại thiên thế giới, tối vi vi trần, ư ý vân hà? - Thị vi trần chúng, ninh vi đa phủ?". Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? - Nhược thị vi trần chúng, thiệt hữu giả, Phật tức bất thuyết thị vi trần chúng. Sở dĩ giả hà? - Phật thuyết vi trần chúng, tức phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng. Thế Tôn! Như Lai sở thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tức phi thế giới thị danh thế giới.

NGHĨA:

Này Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành, gái tín dùng tam thiên đại thiên thế giới, đập nát ra làm vi trần, ý ông thế nào? Những vi trần ấy thiệt là nhiều chăng?".

 Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn ! Rất nhiều".

 Bởi cớ sao? Nếu những vi trần ấy, mà thiệt có, thì Phật chẳng gọi là vi trầnSở dĩ sao? - Bởi Phật nói những vi trần nhưng chẳng phải vi trần, chỉ cưỡng danh là vi trần.

 Bạch đức Thế Tôn! Còn Như Lai nói tam thiên đại thiên thế giới, nhưng chẳng phải thế giới, chỉ cưỡng danh là thế giới.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Vi trần chúngvi trần thiệt nhiều như thế.

Tu Bồ Đề đáp "Rất nhiều", rồi lại bạch đức Thế Tôn mà tự hỏi "bởi cớ sao", là vi trần chúng cớ sao rất nhiều, lại tự đáp: "Bằng vi trần chúng thiệt có, thì Phật chẳng nói là vi trần chúng", là bởi  chơn tánh  thiệt có, nhưng chẳng nói đặng. Còn vi trần chúng chẳng phải thiệt có, nên Phật mới nói: "Phàm sự chi mà nói đặng, đều là hư vọng cả". Duy có  chơn tánh  là chơn thiệt nên chẳng nói đặng. Sở dĩ Phật thường nói: "Chẳng nói đặng, chẳng lấy đặng" là vậy.

Sở dĩ giả hà  là ông Tu Bồ Đề tự hỏi: "Vi trần chúng nếu có thiệt thì Phật chẳng nói là vi trần chúng" là sao vậy? Lại tự đáp: "Phật nói vi trần chúng, là chẳng phải vi trần chúng, chỉ cưỡng danh là vi trần chúng", là nói: Phật nói vi trần chúng là chẳng phải chơn thiệt, chỉ có hư danh vậy thôi, rồi nói nữa: "Như Lai nói tam thiên thế giớithế giới cũng chẳng phải chơn thiệt, cũng chỉ có cái hư danh". (Có giải trong phần thứ mười ba).

Lý Văn Hội giải: Vi trần  là vọng niệm, thế giới biệt danh của sắc thân. Vi trần là nhân, thế giới là quả. Nói vi trầnthế giới, tức là nói nhân quả vậy.

Chơn tánh của tự mình không nhân, không quả, bởi tùy sáu đường  chúng sanh mà làm nhân quả, thì tự tánh là nhân, sáu đường là quả.

Nên biết đặng vi trần khởi ở thế giới, luân hồi  bởi nơi một niệm. Tuy thấy lành nhỏ chẳng nên chấp trước, tuy gặp dữ nhỏ hẳn phải diệt trừ.

Vả chăng chúng sanh bởi tại vọng niệm mà khởi ra cái nghiệp tham, sân, si nên phải chịu cái quả mộng huyễn của ba cõi, cũng như vi trần kia mà thành ra thế giới vậy.

Nhân quả nguyên bởi vọng tâm, mình làm mình chịu. Nhứt niệm ngộ rồi tức không có vi trần; đã không vi trần thì thế giới bởi đâu mà có! Cho nên nói: "Chẳng phải vi trần chỉ cưỡng danh là vi trần, chẳng phải thế giới, chỉ cưỡng danh là thế giới".

Nếu muốn tạo ra thế giới, thì mặc dầu vi trần chúng nó xông ung, còn muốn trừ bỏ thế giới, thì giác ngộ nhơn pháp đều không, không một pháp chi mà đặng, rỗng rang thanh tịnh chẳng bị sự chuyển lay của các cảnh; cũng đều bởi tại tự mình.

Tăng Liễu Tánh giải: Phần này Phật e người sau đời mạt kiếp trùng trùng chấp trước nhân quả, chẳng chịu lìa bỏ, nên có mấy phen căn dặn ông Tu Bồ Đề.

Trong thân của mỗi người đều có cái tạp niệm vi tế, lành dữ rất nhiều, cũng ví như vi trần của đại thiên thế giới vậy. Niệm ấy không chi là chẳng phải cái ảnh hưởng hư vọng mà tạo ra, cho nên nói: "Chẳng phải vi trần chúng".

Cũng bởi tại chuyển lay cái lòng  vô minh phiền não  thành ra cái trí  vô ngại từ bi, mới vào đặng chỗ vắng lặng " tri giải " đặng sự an vui. Cho nên nói: "Chỉ cưỡng danh là vi trần chúng".

 

Xuyên Thiền sư giải: Nếu không lặn xuống nước, đâu biết người có sở trường.

Tụng:

Bụi trần vừa khởi lấp hư không,

Đập nát tam thiên số chẳng cùng.

Giả lão này không thâu thập đặng,

Mặc dầu theo gió mặc theo giông.

152.ÂM:

Hà dĩ cố? - Nhược thế giới thiệt hữu giả, tức thị nhứt hiệp tướng.

NGHĨA:

Bởi cớ sao? - Nếu thế giới mà thiệt có, thì tức là tướng nhứt hiệp.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Hà dĩ cố  là Tu Bồ Đề tự hỏi: "Bởi sao mà thế giới không phải chơn thiệt", rồi tự đáp: "Bằng thế giới thiệt có tức là  tướng nhứt hiệp". Tướng nhứt hiệp  tức chơn tánh. Chơn tánh khắp cả hư không thế giới, không có hình tướng.

Nhứt: là không chia làm hai đặng, hiệp : là không chẻ cho lìa đặng; vốn chẳng có tướng chi, chỉ cưỡng danh là tướng.

Nếu cho thế giới là thiệt có thì tức là chơn tánh? Duy có chơn tánh mới thiệt có mà thôi. Sao vậy? - Là bởi từ đời  vô thỉ  đến nay còn hoài không biến hoại, tự nhiên chẳng phải giả hiệp. Còn cả thảy sự hư huyễn đều là chẳng phải cái bổn nguyên của chơn tánh, thì đâu phải là có thiệt. Vậy thì thế giới đâu sánh với chơn tánh đặng, là bởi thế giới là giả hiệp; đến khi kiếp số hết rồi cũng phải biến hoại, thì cũng đều là hư huyễn, không phải chơn thiệt. Cho nên không thế sánh với chơn tánh đặng.

Lý Văn Hội giải: Vi trần  là nhân, thế giới là quả. Nếu chấp nhân quả là thiệt có thì bị các tướng buộc ràng, cho nên nói: Tướng nhứt hiệp.

Kim Hải Quang Như Lai giải: Thế giới  là Như Lai nói Phật  Lô Xá Na, trụ trì cả tam thiên đại thiên thế giới, sắc thân hóa sanh cội Bồ đề, hiệu là  Thế giới Liên Hoa Tạng, chẳng phải là nói cái thế giới ngăn ngại kia đâu!

Nhứt hiệp tướng  là Phật tánh trong thân của cả thảy chúng sanh với Pháp thân Lô Xá Na, cho nên nói: Tướng nhứt hiệp.

Tụng:

Thuyết pháp Liên Hoa Tàng của Phật.

Tam thiên thế giới nghe tường tất.

Lý mầu Bồ Tát hiểu phân minh,

Phàm tục chấp mê nên thất lật.

153.ÂM:

Như Lai thuyết nhứt hiệp tướng tức phi nhứt hiệp tướng, thị danh nhứt hiệp tướng".

NGHĨA:

Như Lai nói tướng nhứt hiệp, nhưng chẳng phải tướng nhứt hiệp, chỉ cưỡng danh là tướng nhứt hiệp".

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Như Lai thuyết nhứt hiệp tướng là ông Tu Bồ Đề nói Phật thường gọi chơn tánh là  tướng nhứt hiệp.

Tức phi nhứt hiệp tướng  là chơn tánh ví như hư không, chẳng có vật chi. Như "một" thì chẳng hai, "hiệp" thì chẳng lìa.

Thị danh nhứt hiệp tướng  là cưỡng danh là tướng nhứt hiệp

Phàm nói: tức phi đều là thiệt không, thị danh đều là cưỡng danh.

Lý Văn Hội giải: Chẳng chấp thiệt có, cũng chẳng chấp thiệt không, nơi tướng mà lìa tướng, cho nên nói: Chẳng phải tướng nhứt hiệp, chỉ cưỡng danh là tướng nhứt hiệp.

154.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Nhứt hiệp tướng giả, tức thị bất khả thuyết.

NGHĨA:

"Tu Bồ Đề! Tướng nhứt hiệp ấy, nói chẳng đặng.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Phật thường nói chơn tánh là tướng  nhứt hiệp, nên ông Tu Bồ Đề mới cho là thiệt có. Phật lại bảo ông Tu Bồ Đề: Tướng nhứt hiệp  là chơn tánh, mà không thế nói đặng, chỉ cưỡng danh vậy thôi.

Lý Văn Hội giải: Tức thị bất khả thuyết là người học đạo phải tự tỉnh ngộ, các lý sự đều không ngăn ngại. Phàm phu cứ tham chấp sự tướng, chẳng thông lý đạo, nên nói nhân quả, thì chấp nhân quả, còn nói thế giới thì lại chấp thế giới.

155.ÂM:

Đản phàm phu chi nhơn, tham trước kỳ sự".

NGHĨA:

Chỉ vì kẻ phàm phu hay tham chấp sự tướng".

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Phật nói kẻ phàm phu chẳng tỏ ngộ chơn tánh, lại hay chấp căn trần sự tướng trong chơn tánh hiện ra, rồi nhận căn trần ấy là "thiệt ta", nên phải đắm chìm trong lục đạo, không bao giờ thoát khỏi, cho nên nói: Phàm phu.

Kinh Hoa Nghiêm có nói: "Lìa các tướng hòa hiệp mới là Vô thượng giác".

Phật gọi là Giác: ngoại giác  lìa cả thảy có tướng, nội giác  lìa cả thảy không tướng; nơi tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không. Đặng cái lý nhiệm mầu không tướng của chơn không, nên nói là Phật.

Lục Tổ giải: Nhứt hiệp tướng  là mắt thấy sắc thì mến, nên hiệp với sắc, tai nghe thinh thì mộ, nên hiệp với thinh v.v... Khi  Lục trần  tan hết, tức là chơn thế giới. Hiệp lại, ấy là phàm phu, còn tan ra ấy là chẳng phải phàm phu.

Phàm phu đối với cả thảy pháp đều hiệp, Bồ Tát đối với cả thảy đều chẳng hiệp.

Bởi cớ sao? - Bởi hiệp thì còn trói buộc, nên khởi ra sanh diệt, còn tan thì đặng giải thoát, nên không có sanh diệt. Nếu còn bị trói buộc trong đường sanh diệt, ấy là phàm phu. Bởi vậy trong kinh nói: "Chỉ có kẻ phàm phu mới là tham chấp sự tướng".

Nhan Bính giải: Vi trần tuy nhiều, chưa đủ làm nhiều, thế giới giả hiệp cũng là không thiệt. Nếu nói thiệt có vi trầnthế giới, thì đều chấp tướng cả hai. Nó đã là tướng, ta lại chấp tướng, thì hai tướng hòa hiệp, ấy là tướng nhứt hiệp . Cho nên nói: "Tướng nhứt hiệp  ấy, nói chẳng đặng, chỉ kẻ phàm phu chưa tỏ ngộ, mới vọng sanh tham chấp".

Viên Ngộ Thiền sư giải: Bao giờ các ngươi, trên chẳng thấy có chư Phật, dưới chẳng thấy có chúng sanh, ngoài chẳng thấy có núi sông đại địa, trong chẳng thấy có sự thấy nghe hiểu biết, tốt xấu dở hay, nhồi lại làm một khối, còn mỗi mỗi đều buông bỏ thì không còn thấy cái chi khác nữa.

Tiêu Diêu Ông giải: Người học đạo, chỉ phải tỏ ngộ cái lòng minh linh, ấy là nguồn cội. Bằng có niệm chi vọng tưởng đều là trần cấu, chớ cho nó nhiễm trước thì sẽ chứng đặng  Pháp thân thanh tịnh.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Báo ứng không chi khác, Giới trần cũng chẳng ngoài.

Có nhân đâu quả có, Ai trước lại sau ai.

Sự phải tường nguyên một, Lý nên diệt cả hai.

Vô sanh như muốn rõ, Mau xét thấu do lai.

Xuyên Thiền sư giải:

 

Nắm tóm lại, mở bùng ra,

Chỉ huy tướng lịnh, binh gia vận hành.

 

Tụng:

Một khối thành hai mảnh,

Đập tan trở lại tròn.

Nhai nghiền đừng cắn bể,

Mùi vị mới hoàn toàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15563)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 14997)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13262)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14442)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20200)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18422)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30752)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12417)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15518)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13755)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13928)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13529)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14448)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13721)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16729)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15383)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31226)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18819)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 14991)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14587)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14574)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13785)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19695)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14434)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14518)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14715)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14759)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17913)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13564)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13688)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14944)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14154)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16422)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15321)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13486)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13147)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13265)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12987)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14082)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14720)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14217)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14610)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13001)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13808)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13260)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13742)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14685)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14756)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13274)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12831)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13737)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13672)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13324)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13885)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13690)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12590)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14812)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12874)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12445)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant