Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 3 – Ngăn chặn sự xấu xa

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10654)
Đối thoại 3 – Ngăn chặn sự xấu xa

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 3

NGĂN CHẶN SỰ XẤU XA

New Delhi, ngày 15 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Một trong những vấn đề trọng yếu nhất liên quan đến con người là sự cần thiết phải ngăn chặn sự xấu xa. Có vẻ như thể tại những thời điểm nào đó trong lịch sử, bởi vì những hoàn cảnh khác nhau, sự xấu xa đã có một phạm vi rộng lớn hơn mà nó vận hành trong đó. Những thể hiện của xấu xa rất nghiêm trọng, những vấn đề của xấu xa rất phức tạp đến độ cá thể không biết làm thế nào giải quyết được chúng.

 Anh sẽ nói gì về cách giải quyết được xấu xa? Liệu có một sự việc như xấu xa tách khỏi tốt lành?

Krishnamurti: Tôi không hiểu bạn có ý gì? Một bụi cây có nhiều gai – bạn gọi nó là xấu xa? Bạn gọi một con rắn có nọc độc là xấu xa? Không con thú dữ tợn nào là xấu xa – kể cả con cá mập lẫn con cọp.

 Vì vậy, bạn có ý gì qua từ ngữ xấu xa? Cái gì đó gây nguy hiểm? Cái gì đó có thể mang lại tai họa khủng khiếp, cái gì đó có thể gây ra đau đớn vô cùng, cái gì đó có thể hủy diệt hay ngăn cản ánh sáng của hiểu rõ? Bạn sẽ gọi chiến tranh là xấu xa? Bạn sẽ gọi những vị tướng, những người cai trị, những người chỉ huyxấu xa bởi bị họ giúp đỡ tạo ra chiến tranh, sự hủy diệt?

P: Những gì ngăn cản sự tự nhiên của những sự vật có thể được gọi là xấu xa.

Krishnamurti: Con người rất hung tợn, anh ấy là xấu xa?

P: Nếu anh ấy đang ngăn cản, nếu qua những ý định hiểm độc anh ấy đang khiến cho những sự vật đi chệch hướng...

Krishnamurti: Tôi chỉ đang thắc mắc từ ngữ xấu xa đó có ý nghĩa gì? Xấu xaý nghĩa gì đối với một cái trí thông minh; một cái trí mà nhận biết được tất cả những kinh hoàng trong thế giới?

P: Xấu xa là những sự việc làm chật hẹp ý thức, những sự việc tạo ra sự tối tăm.

Krishnamurti: Sợ hãi, phiền muộn, đau khổ tạo ra việc đó. Bạn sẽ nói rằng xấu xa là sự khuyến khích của sợ hãi? Liệu xấu xa là một phương tiện gia tăng sự đau khổ? Liệu xấu xatình trạng bị quy định của môi trường và xã hộiliên tục gây ra chiến tranh? Tất cả những sự việc này giới hạn ý thức và tạo ra tối tămđau khổ. Xấu xa, tùy theo ý tưởng Thiên chúa giáo, là ma quỉ. Liệu người Ấn giáo có bất kỳ ý tưởng nào về xấu xa? Nếu anh ấy có một ý tưởng xấu xa, nó sẽ là gì? Thuộc cá nhân, tôi không bao giờ nghĩ về xấu xa.

 Bạn sẽ nói rằng trong sự nở hoa của tốt lành, không có xấu xa gì cả chứ? Rằng trạng thái này không biết đến xấu xa? Hay xấu xa là một sáng chế của cái trí mà nuôi dưỡng sợ hãi và tạo ra tốt lành?

P: Tôi xin được phép nói điều gì đó chứ? Nếu anh thâm nhập sâu thẳm vào những ngõ ngách của cái trí con người, vào lịch sử của nhân loại, luôn luôn có người thầy, mụ phù thuỷ mà phá hoại luật lệ của thiên nhiên, mà tạo ra sợ hãitối tăm. Nó là một trong những yếu tố lạ lùng nhất trong cái trí con người. Do bởi sự sợ hãi khủng khiếp này về cái không biết được, sự tối tăm đó mà không có giới hạn, không có kết thúc, mà lan tràn qua lịch sử của con người, nên con người mới van xin được bảo vệ; một kêu gào mà vang vọng khắp ý thức của con người. Chính việc này là một hỗn mang không danh tánh, không biết được của sợ hãi. Gợi ý rằng nó là sợ hãi cũng không đầy đủ. Nó là tất cả điều đó và còn nhiều hơn nữa.

Krishnamurti: Bạn đang nói rằng sâu thẳm trong con người, trong những ngõ ngách của cái trí, có sợ hãi về cái không biết được, về cái gì đó mà con người không thể tiếp xúc hay tưởng tượng? Bởi vì bị sợ hãi thật sâu thẳm, anh ấy cần đến sự bảo vệ của những thần thánh và, bất kỳ việc gì mà tạo ra một thức dậy của sự nguy hiểm đó, bất kỳ hàm ý nào gợi lên cái sự việc giấu giếm đó, anh ấy gọi là xấu xa?

P: Sự tối tăm này luôn luôn tồn tại sâu thẳm trong ý thức con người.

Krishnamurti: Xấu xa là đối nghịch của tốt lành hay nó hoàn toàn lệ thuộc vào tốt lành?

P: Nó độc lập khỏi tốt lành.

Krishnamurti: Bạn đang nói nó độc lập. Vậy thì, liệu xấu xa là cái gì đó mà trong chính nó không liên quan gì đến vẻ đẹp, đến tình yêu? Chống lại xấu xa, con người đã luôn luôn tìm kiếm sự bảo vệ, như anh ấy thường làm chống lại một con thú. Có sự nguy hiểm rình rập lén lút này. Con người nhận biết được nó, anh ấy sợ hãitìm kiếm qua những bùa chú, qua những lễ nghivân vân để xua đuổi nó đi và được bảo vệ. Bụi cây mà có đầy gai độc tự bảo vệchống lại thú vậtthú vật sẽ gọi đó là xấu xa bởi vì nó không thể ăn được những chiếc lá. Liệu có một lực lượng, một thể hiện của xấu xa hoàn toàn tách khỏi tốt lành, vẻ đẹp? Có toàn ý tưởng rằng xấu xa đang đấu tranh với tốt lành. Xấu xa này được biết đến khi thể hiện trong con người, và luôn luôn xấu xa đang đấu tranh với tốt lành và sự hòa nhã. Tôi đang hỏi liệu xấu xa hoàn toàn độc lập khỏi tốt lành? Bạn phải rất cẩn thận để không trở nên mê tín.

P: ‘Sợ hãi’ về cái gì đó đối nghịch với tốt lành. Nhưng những sợ hãi giấu giếm nhất lại không phải ‘về bất kỳ cái gì’.

S: Nó không những là sự bảo vệ và sự sợ hãi và sự sợ hãi đó được bao hàm trong xấu xa, nhưng còn cả sự bảo vệ với mục đích để tiến về phía trước.

P: Nhu cầu cho sự bảo vệ, những câu thần chú như những bùa mê, những vòng tròn như những biểu đồ ma thuật và những cử động ngón tay như những cử chỉ ma thuật được dự tính để cung cấp sự bảo vệ chống lại xấu xa.

Krishnamurti: Bạn thấy, khi bạn thâm nhập sâu thẳm vào ý thức, bạn đến được một vị trí nơi cái không biết được xuất hiện như sự tối tăm, và ở đó bạn ngừng lại, bởi vì bạn sợ hãi. Cái trí xuyên thấu sâu thẳm đến một vị trí, và đằng sau vị trí đó có cảm giác của sự trống không tối tăm này. Bởi vì gặp gỡ sự tối tăm, bạn có những cầu nguyện, những bùa chú, và bởi vì sợ hãi sự tối tăm, bạn van xin được bảo vệ. Liệu cái trí có thể xuyên thủng sự tối tăm, mà có nghĩa liệu cái trí có thể không còn sợ hãi? Liệu nó có thể vận hành để cho sự tối tăm trở thành ánh sáng? Liệu bạn có thể xuyên thủng sự tối tăm của cái mà bạn sợ hãi, mà bạn đã đặt tên là ‘xấu xa’? Liệu bạn có thể hoàn toàn xuyên thủng cái đó trọn vẹn đến độ sự tối tăm không còn tồn tại? Lúc đó, xấu xa là gì?

P: Khi cái vòng tròn nghi thức mandala được vẽ ra, lối vào cái vòng tròn là qua bùa chú và ma thuật. Trong lối vào sự tối tăm này, bùa chú mà sẽ mở toang những cánh cổng là gì?

Krishnamurti: Ý thức như sự suy nghĩ, tự thâm nhập vào chính nó – chiều sâu của nó. Khi nó thâm nhập, nó bắt gặp sự tối tăm này. Sự thâm nhập này không là một qui trình của thời gian. Và bạn đang hỏi ma thuật hay năng lượng mà sẽ xuyên thủng tận đáy của sự tối tăm là gì, năng lượng đó là gì và làm thế nào nó hiện diện được?

 Chính năng lượng mà bắt đầu thâm nhập vẫn còn ở đó, mãnh liệt thêm, sinh động thêm khi nó thâm nhập, xuyên thủng. Tại sao bạn hỏi liệu có nhu cầu của năng lượng to tát hơn?

P: Bởi vì năng lượng bị cạn kiệt. Chúng ta xuyên thủng đến một vị trí và không sâu thêm nữa.

Krishnamurti: Bởi vì sợ hãi, bởi vì kinh hoàng cái gì đó mà chúng ta không biết, chúng ta làm hao tán năng lượng thay vì tập trung nó lại. Tôi muốn xuyên thủng vào chính tôi. Tôi thấy đang thâm nhập vào chính tôi là cùng chuyển động như bên ngoài. Nó đang thâm nhập vào không gian. Trong thâm nhập vào không gian, có một nhu cầu nào đó, một năng lượng nào đó. Năng lượng đó phải không có bất kỳ sự nỗ lực, không có bất kỳ sự biến dạng. Khi nó thâm nhập, nó thâu gom động lượng. Nếu nó không có con đường mà qua đó nó có thể tẩu thoát, nó không bị biến dạng. Nó trở nên thăm thẳm hơn, rộng rãi hơn, mãnh liệt hơn. Sau đó, bạn đến một vị trí nơi có sự tối tăm. Và làm thế nào người ta thâm nhập sự tối tăm đó bằng năng lượng vô cùng này? (Ngừng).

P: Nghi vấn đầu tiên mà chúng ta bắt đầu là làm thế nào xấu xa này sẽ được ngăn chặn? Anh đã nói khi người ta xuyên thủng vào đại dương của sự tối tăm, tối tăm không hiện diện; ánh sáng hiện diện. Nhưng khi có xấu xa trong những con người, trong những hoàn cảnh nào đó, trong những xảy ra nào đó, liệu có bất kỳ hành động nào mà có thể ngăn chặn được xấu xa này?

Krishnamurti: Tôi sẽ không trình bày nó theo cách đó. Kháng cự lại xấu xa củng cố thêm xấu xa. Vì vậy nếu cái trí đang sống trong tốt lành, vậy thì không có kháng cự và xấu xa không thể tiếp xúc nó. Vì vậy không có ngăn chặn sự xấu xa.

P: Lúc đó chỉ có tốt lành?

Krishnamurti: Chúng ta phải quay trở lại điều gì khác – cái trí đã thâm nhập vào sự tối tăm và nó kết thúc sự tối tăm. Nhưng liệu có xấu xa mà tách khỏi tất cả điều đó? Hay xấu xa là bộ phận của tốt lành?

 Bạn thấy trong thiên nhiên có những con vật lớn đang sống dựa vào những con vật nhỏ, những con vật lớn hơn dựa vào những con vật lớn. Tôi sẽ không gọi điều đó là xấu xa. Sự ham muốn cố ý để gây tổn thương một người khác; đó là bộ phận của xấu xa? Tôi muốn gây tổn thương một người khác, đó là bộ phận của xấu xa? Tôi muốn gây tổn thương bạn bởi vì bạn đã làm điều gì đó đối với tôi; đó là xấu xa?

P: Đó là bộ phận của xấu xa.

Krishnamurti: Vậy thì, điều đó hàm ý ý muốn. Bạn gây tổn thương tôi, và, bởi vì tôi kiêu ngạo, tôi muốn trả thù. Mong muốn trả thù là một hành động của ý muốn. Dù nó là ý muốn để phản ứng hay để làm tốt lành, cả hai đều là xấu xa.

P: Quay lại vòng tròn nghi thức mandala; xấu xa có thể len lỏi vào khi những cái cổng không được bảo vệ. Ở đây, hai mắt và hai tai của anh là những cái cổng.

Krishnamurti: Vậy là bạn đang nói khi hai mắt thấy minh bạch, hai tai nghe rõ ràng, lúc đó xấu xa không thể len lỏi vào.

 Để quay lại, ý định cố ý, sự tập hợp của những ý định, suy nghĩ nó lặp đi và lặp lại, mà tất cả đều là ý định sâu thẳm để gây tổn thương, là bộ phận của ý muốn. Tôi nghĩ đó là nơi xấu xa hiện diện – hành động cố ý để gây tổn thương. Bạn gây tổn thương tôi, tôi gây tổn thương bạn; tôi xin lỗi và nó kết thúc. Nhưng nếu tôi giữ lại, nhớ lại, củng cố một cách cố ý, tuân theo một kế hoạch để gây tổn thương bạn, mà là bộ phận của ý muốn trong con người để làm tổn thương hay không làm tổn thương, vậy thìxấu xa.

 Vì vậy, liệu có một cách sống mà không có ý muốn? Khoảnh khắc tôi kháng cự, xấu xa phải ở một bên, và tốt lành ở phía bên kia và có sự liên quan giữa hai. Khi không có kháng cự, không có sự liên quan giữa hai. Và lúc đó tình yêu là một không gian khoáng đạt, không có bất kỳ từ ngữ nào, không có bất kỳ kháng cự nào. Tình yêu là hành động từ trống không. Như ngày hôm qua chúng ta đã bàn luận, khi một cách cố ý những nguyên tố đực khẳng định, đòi hỏi, sở hữu, thống trị, con người mời mọc xấu xa. Và những nguyên tố cái, nhượng bộ, nhượng bộ, nhượng bộ và cố ý nhượng bộ với mục đích để thống trị, cũng mời mọc xấu xa.

 Vậy là, nơi nào có sự theo đuổi ma mãnh của sự thống trị, mà là sự vận hành của ý muốn, có sự khởi đầu của xấu xa.

 Bạn thấy, chúng ta cố gắng bảo vệ chính chúng ta chống lại sự xấu xa đó. Chúng ta đang tự tạo ra xấu xa cho chính chúng tatuy nhiên chúng ta lại vẽ một vòng tròn, một lược đồ quanh bậc thềm cửa của ngôi nhà để tìm kiếm sự bảo vệ chống lại sự xấu xa, và phía bên trong con rắn của xấu xa đang vận hành.

 Hãy giữ sạch sẽ ngôi nhà của bạn. Hãy quên đi tất cả những bùa chú; không gì có thể chạm đến bạn.

 Chúng ta xin xỏ sự bảo vệ của những thần thánh, những người mà chúng ta đã sáng chế. Thật là quái đản.

 Tất cả những chiến tranh này, tất cả những hận thù chủng tộc này, tất cả những hận thù chồng chấtcon người đã và đang lưu trữ, việc đó phải có một hận thù tập hợp, một xấu xa tập trung. Những người Hitler, những người Mussolini, những người Stalin, những trại tập trung, những người Atilla; tất cả việc đó phải được lưu trữ, phải có một bộ phận nơi nào đó.

 Cũng thế, cảm thấy của ‘đừng giết chóc, hãy tử tế, hãy hòa nhã, hãy từ bi’ – cảm thấy đó cũng phải được lưu trữ nơi nào đó.

 Khi người ta cố gắng tự bảo vệ mình chống lại một điều, xấu xa, người ta cũng đang tự bảo vệ mình chống lại tốt lành, bởi vì con người đã tạo ra hai điều này. Vì vậy, liệu cái trí có thể thâm nhập vào sự tối tăm và chính thâm nhập vào nó, là xua tan sự tối tăm?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12534)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10453)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12385)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11696)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28862)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12082)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13057)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11488)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12415)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17493)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53160)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35557)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21489)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10716)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19330)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12461)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26119)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13363)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14428)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16117)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13767)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16894)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17646)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13190)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12561)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11660)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11664)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14556)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20521)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19064)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19649)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18752)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12242)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12376)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13922)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15105)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15099)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14031)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15563)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11429)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17245)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15030)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20295)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14656)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13917)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11774)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15105)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13043)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22937)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14592)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11708)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13209)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16944)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18398)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11972)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11539)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15900)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12931)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18969)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18505)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant