Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 3 – Ngăn chặn sự xấu xa

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10658)
Đối thoại 3 – Ngăn chặn sự xấu xa

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 3

NGĂN CHẶN SỰ XẤU XA

New Delhi, ngày 15 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Một trong những vấn đề trọng yếu nhất liên quan đến con người là sự cần thiết phải ngăn chặn sự xấu xa. Có vẻ như thể tại những thời điểm nào đó trong lịch sử, bởi vì những hoàn cảnh khác nhau, sự xấu xa đã có một phạm vi rộng lớn hơn mà nó vận hành trong đó. Những thể hiện của xấu xa rất nghiêm trọng, những vấn đề của xấu xa rất phức tạp đến độ cá thể không biết làm thế nào giải quyết được chúng.

 Anh sẽ nói gì về cách giải quyết được xấu xa? Liệu có một sự việc như xấu xa tách khỏi tốt lành?

Krishnamurti: Tôi không hiểu bạn có ý gì? Một bụi cây có nhiều gai – bạn gọi nó là xấu xa? Bạn gọi một con rắn có nọc độc là xấu xa? Không con thú dữ tợn nào là xấu xa – kể cả con cá mập lẫn con cọp.

 Vì vậy, bạn có ý gì qua từ ngữ xấu xa? Cái gì đó gây nguy hiểm? Cái gì đó có thể mang lại tai họa khủng khiếp, cái gì đó có thể gây ra đau đớn vô cùng, cái gì đó có thể hủy diệt hay ngăn cản ánh sáng của hiểu rõ? Bạn sẽ gọi chiến tranh là xấu xa? Bạn sẽ gọi những vị tướng, những người cai trị, những người chỉ huyxấu xa bởi bị họ giúp đỡ tạo ra chiến tranh, sự hủy diệt?

P: Những gì ngăn cản sự tự nhiên của những sự vật có thể được gọi là xấu xa.

Krishnamurti: Con người rất hung tợn, anh ấy là xấu xa?

P: Nếu anh ấy đang ngăn cản, nếu qua những ý định hiểm độc anh ấy đang khiến cho những sự vật đi chệch hướng...

Krishnamurti: Tôi chỉ đang thắc mắc từ ngữ xấu xa đó có ý nghĩa gì? Xấu xaý nghĩa gì đối với một cái trí thông minh; một cái trí mà nhận biết được tất cả những kinh hoàng trong thế giới?

P: Xấu xa là những sự việc làm chật hẹp ý thức, những sự việc tạo ra sự tối tăm.

Krishnamurti: Sợ hãi, phiền muộn, đau khổ tạo ra việc đó. Bạn sẽ nói rằng xấu xa là sự khuyến khích của sợ hãi? Liệu xấu xa là một phương tiện gia tăng sự đau khổ? Liệu xấu xatình trạng bị quy định của môi trường và xã hộiliên tục gây ra chiến tranh? Tất cả những sự việc này giới hạn ý thức và tạo ra tối tămđau khổ. Xấu xa, tùy theo ý tưởng Thiên chúa giáo, là ma quỉ. Liệu người Ấn giáo có bất kỳ ý tưởng nào về xấu xa? Nếu anh ấy có một ý tưởng xấu xa, nó sẽ là gì? Thuộc cá nhân, tôi không bao giờ nghĩ về xấu xa.

 Bạn sẽ nói rằng trong sự nở hoa của tốt lành, không có xấu xa gì cả chứ? Rằng trạng thái này không biết đến xấu xa? Hay xấu xa là một sáng chế của cái trí mà nuôi dưỡng sợ hãi và tạo ra tốt lành?

P: Tôi xin được phép nói điều gì đó chứ? Nếu anh thâm nhập sâu thẳm vào những ngõ ngách của cái trí con người, vào lịch sử của nhân loại, luôn luôn có người thầy, mụ phù thuỷ mà phá hoại luật lệ của thiên nhiên, mà tạo ra sợ hãitối tăm. Nó là một trong những yếu tố lạ lùng nhất trong cái trí con người. Do bởi sự sợ hãi khủng khiếp này về cái không biết được, sự tối tăm đó mà không có giới hạn, không có kết thúc, mà lan tràn qua lịch sử của con người, nên con người mới van xin được bảo vệ; một kêu gào mà vang vọng khắp ý thức của con người. Chính việc này là một hỗn mang không danh tánh, không biết được của sợ hãi. Gợi ý rằng nó là sợ hãi cũng không đầy đủ. Nó là tất cả điều đó và còn nhiều hơn nữa.

Krishnamurti: Bạn đang nói rằng sâu thẳm trong con người, trong những ngõ ngách của cái trí, có sợ hãi về cái không biết được, về cái gì đó mà con người không thể tiếp xúc hay tưởng tượng? Bởi vì bị sợ hãi thật sâu thẳm, anh ấy cần đến sự bảo vệ của những thần thánh và, bất kỳ việc gì mà tạo ra một thức dậy của sự nguy hiểm đó, bất kỳ hàm ý nào gợi lên cái sự việc giấu giếm đó, anh ấy gọi là xấu xa?

P: Sự tối tăm này luôn luôn tồn tại sâu thẳm trong ý thức con người.

Krishnamurti: Xấu xa là đối nghịch của tốt lành hay nó hoàn toàn lệ thuộc vào tốt lành?

P: Nó độc lập khỏi tốt lành.

Krishnamurti: Bạn đang nói nó độc lập. Vậy thì, liệu xấu xa là cái gì đó mà trong chính nó không liên quan gì đến vẻ đẹp, đến tình yêu? Chống lại xấu xa, con người đã luôn luôn tìm kiếm sự bảo vệ, như anh ấy thường làm chống lại một con thú. Có sự nguy hiểm rình rập lén lút này. Con người nhận biết được nó, anh ấy sợ hãitìm kiếm qua những bùa chú, qua những lễ nghivân vân để xua đuổi nó đi và được bảo vệ. Bụi cây mà có đầy gai độc tự bảo vệchống lại thú vậtthú vật sẽ gọi đó là xấu xa bởi vì nó không thể ăn được những chiếc lá. Liệu có một lực lượng, một thể hiện của xấu xa hoàn toàn tách khỏi tốt lành, vẻ đẹp? Có toàn ý tưởng rằng xấu xa đang đấu tranh với tốt lành. Xấu xa này được biết đến khi thể hiện trong con người, và luôn luôn xấu xa đang đấu tranh với tốt lành và sự hòa nhã. Tôi đang hỏi liệu xấu xa hoàn toàn độc lập khỏi tốt lành? Bạn phải rất cẩn thận để không trở nên mê tín.

P: ‘Sợ hãi’ về cái gì đó đối nghịch với tốt lành. Nhưng những sợ hãi giấu giếm nhất lại không phải ‘về bất kỳ cái gì’.

S: Nó không những là sự bảo vệ và sự sợ hãi và sự sợ hãi đó được bao hàm trong xấu xa, nhưng còn cả sự bảo vệ với mục đích để tiến về phía trước.

P: Nhu cầu cho sự bảo vệ, những câu thần chú như những bùa mê, những vòng tròn như những biểu đồ ma thuật và những cử động ngón tay như những cử chỉ ma thuật được dự tính để cung cấp sự bảo vệ chống lại xấu xa.

Krishnamurti: Bạn thấy, khi bạn thâm nhập sâu thẳm vào ý thức, bạn đến được một vị trí nơi cái không biết được xuất hiện như sự tối tăm, và ở đó bạn ngừng lại, bởi vì bạn sợ hãi. Cái trí xuyên thấu sâu thẳm đến một vị trí, và đằng sau vị trí đó có cảm giác của sự trống không tối tăm này. Bởi vì gặp gỡ sự tối tăm, bạn có những cầu nguyện, những bùa chú, và bởi vì sợ hãi sự tối tăm, bạn van xin được bảo vệ. Liệu cái trí có thể xuyên thủng sự tối tăm, mà có nghĩa liệu cái trí có thể không còn sợ hãi? Liệu nó có thể vận hành để cho sự tối tăm trở thành ánh sáng? Liệu bạn có thể xuyên thủng sự tối tăm của cái mà bạn sợ hãi, mà bạn đã đặt tên là ‘xấu xa’? Liệu bạn có thể hoàn toàn xuyên thủng cái đó trọn vẹn đến độ sự tối tăm không còn tồn tại? Lúc đó, xấu xa là gì?

P: Khi cái vòng tròn nghi thức mandala được vẽ ra, lối vào cái vòng tròn là qua bùa chú và ma thuật. Trong lối vào sự tối tăm này, bùa chú mà sẽ mở toang những cánh cổng là gì?

Krishnamurti: Ý thức như sự suy nghĩ, tự thâm nhập vào chính nó – chiều sâu của nó. Khi nó thâm nhập, nó bắt gặp sự tối tăm này. Sự thâm nhập này không là một qui trình của thời gian. Và bạn đang hỏi ma thuật hay năng lượng mà sẽ xuyên thủng tận đáy của sự tối tăm là gì, năng lượng đó là gì và làm thế nào nó hiện diện được?

 Chính năng lượng mà bắt đầu thâm nhập vẫn còn ở đó, mãnh liệt thêm, sinh động thêm khi nó thâm nhập, xuyên thủng. Tại sao bạn hỏi liệu có nhu cầu của năng lượng to tát hơn?

P: Bởi vì năng lượng bị cạn kiệt. Chúng ta xuyên thủng đến một vị trí và không sâu thêm nữa.

Krishnamurti: Bởi vì sợ hãi, bởi vì kinh hoàng cái gì đó mà chúng ta không biết, chúng ta làm hao tán năng lượng thay vì tập trung nó lại. Tôi muốn xuyên thủng vào chính tôi. Tôi thấy đang thâm nhập vào chính tôi là cùng chuyển động như bên ngoài. Nó đang thâm nhập vào không gian. Trong thâm nhập vào không gian, có một nhu cầu nào đó, một năng lượng nào đó. Năng lượng đó phải không có bất kỳ sự nỗ lực, không có bất kỳ sự biến dạng. Khi nó thâm nhập, nó thâu gom động lượng. Nếu nó không có con đường mà qua đó nó có thể tẩu thoát, nó không bị biến dạng. Nó trở nên thăm thẳm hơn, rộng rãi hơn, mãnh liệt hơn. Sau đó, bạn đến một vị trí nơi có sự tối tăm. Và làm thế nào người ta thâm nhập sự tối tăm đó bằng năng lượng vô cùng này? (Ngừng).

P: Nghi vấn đầu tiên mà chúng ta bắt đầu là làm thế nào xấu xa này sẽ được ngăn chặn? Anh đã nói khi người ta xuyên thủng vào đại dương của sự tối tăm, tối tăm không hiện diện; ánh sáng hiện diện. Nhưng khi có xấu xa trong những con người, trong những hoàn cảnh nào đó, trong những xảy ra nào đó, liệu có bất kỳ hành động nào mà có thể ngăn chặn được xấu xa này?

Krishnamurti: Tôi sẽ không trình bày nó theo cách đó. Kháng cự lại xấu xa củng cố thêm xấu xa. Vì vậy nếu cái trí đang sống trong tốt lành, vậy thì không có kháng cự và xấu xa không thể tiếp xúc nó. Vì vậy không có ngăn chặn sự xấu xa.

P: Lúc đó chỉ có tốt lành?

Krishnamurti: Chúng ta phải quay trở lại điều gì khác – cái trí đã thâm nhập vào sự tối tăm và nó kết thúc sự tối tăm. Nhưng liệu có xấu xa mà tách khỏi tất cả điều đó? Hay xấu xa là bộ phận của tốt lành?

 Bạn thấy trong thiên nhiên có những con vật lớn đang sống dựa vào những con vật nhỏ, những con vật lớn hơn dựa vào những con vật lớn. Tôi sẽ không gọi điều đó là xấu xa. Sự ham muốn cố ý để gây tổn thương một người khác; đó là bộ phận của xấu xa? Tôi muốn gây tổn thương một người khác, đó là bộ phận của xấu xa? Tôi muốn gây tổn thương bạn bởi vì bạn đã làm điều gì đó đối với tôi; đó là xấu xa?

P: Đó là bộ phận của xấu xa.

Krishnamurti: Vậy thì, điều đó hàm ý ý muốn. Bạn gây tổn thương tôi, và, bởi vì tôi kiêu ngạo, tôi muốn trả thù. Mong muốn trả thù là một hành động của ý muốn. Dù nó là ý muốn để phản ứng hay để làm tốt lành, cả hai đều là xấu xa.

P: Quay lại vòng tròn nghi thức mandala; xấu xa có thể len lỏi vào khi những cái cổng không được bảo vệ. Ở đây, hai mắt và hai tai của anh là những cái cổng.

Krishnamurti: Vậy là bạn đang nói khi hai mắt thấy minh bạch, hai tai nghe rõ ràng, lúc đó xấu xa không thể len lỏi vào.

 Để quay lại, ý định cố ý, sự tập hợp của những ý định, suy nghĩ nó lặp đi và lặp lại, mà tất cả đều là ý định sâu thẳm để gây tổn thương, là bộ phận của ý muốn. Tôi nghĩ đó là nơi xấu xa hiện diện – hành động cố ý để gây tổn thương. Bạn gây tổn thương tôi, tôi gây tổn thương bạn; tôi xin lỗi và nó kết thúc. Nhưng nếu tôi giữ lại, nhớ lại, củng cố một cách cố ý, tuân theo một kế hoạch để gây tổn thương bạn, mà là bộ phận của ý muốn trong con người để làm tổn thương hay không làm tổn thương, vậy thìxấu xa.

 Vì vậy, liệu có một cách sống mà không có ý muốn? Khoảnh khắc tôi kháng cự, xấu xa phải ở một bên, và tốt lành ở phía bên kia và có sự liên quan giữa hai. Khi không có kháng cự, không có sự liên quan giữa hai. Và lúc đó tình yêu là một không gian khoáng đạt, không có bất kỳ từ ngữ nào, không có bất kỳ kháng cự nào. Tình yêu là hành động từ trống không. Như ngày hôm qua chúng ta đã bàn luận, khi một cách cố ý những nguyên tố đực khẳng định, đòi hỏi, sở hữu, thống trị, con người mời mọc xấu xa. Và những nguyên tố cái, nhượng bộ, nhượng bộ, nhượng bộ và cố ý nhượng bộ với mục đích để thống trị, cũng mời mọc xấu xa.

 Vậy là, nơi nào có sự theo đuổi ma mãnh của sự thống trị, mà là sự vận hành của ý muốn, có sự khởi đầu của xấu xa.

 Bạn thấy, chúng ta cố gắng bảo vệ chính chúng ta chống lại sự xấu xa đó. Chúng ta đang tự tạo ra xấu xa cho chính chúng tatuy nhiên chúng ta lại vẽ một vòng tròn, một lược đồ quanh bậc thềm cửa của ngôi nhà để tìm kiếm sự bảo vệ chống lại sự xấu xa, và phía bên trong con rắn của xấu xa đang vận hành.

 Hãy giữ sạch sẽ ngôi nhà của bạn. Hãy quên đi tất cả những bùa chú; không gì có thể chạm đến bạn.

 Chúng ta xin xỏ sự bảo vệ của những thần thánh, những người mà chúng ta đã sáng chế. Thật là quái đản.

 Tất cả những chiến tranh này, tất cả những hận thù chủng tộc này, tất cả những hận thù chồng chấtcon người đã và đang lưu trữ, việc đó phải có một hận thù tập hợp, một xấu xa tập trung. Những người Hitler, những người Mussolini, những người Stalin, những trại tập trung, những người Atilla; tất cả việc đó phải được lưu trữ, phải có một bộ phận nơi nào đó.

 Cũng thế, cảm thấy của ‘đừng giết chóc, hãy tử tế, hãy hòa nhã, hãy từ bi’ – cảm thấy đó cũng phải được lưu trữ nơi nào đó.

 Khi người ta cố gắng tự bảo vệ mình chống lại một điều, xấu xa, người ta cũng đang tự bảo vệ mình chống lại tốt lành, bởi vì con người đã tạo ra hai điều này. Vì vậy, liệu cái trí có thể thâm nhập vào sự tối tăm và chính thâm nhập vào nó, là xua tan sự tối tăm?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11687)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12007)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11147)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11391)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12110)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12598)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10820)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18041)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11758)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9993)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10220)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12403)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15408)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11280)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14377)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12154)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15432)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12044)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12470)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11234)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12136)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10665)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12588)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13215)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14902)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12747)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16627)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19726)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13160)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12701)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12305)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11912)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10955)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13573)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11992)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11894)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11684)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12802)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14583)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12667)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15709)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13663)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12957)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9920)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18065)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11228)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9123)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12224)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13098)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10350)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12239)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15364)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16658)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12275)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11530)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14335)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19778)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14215)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24672)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10733)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant