Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 3 – Ngăn chặn sự xấu xa

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10659)
Đối thoại 3 – Ngăn chặn sự xấu xa

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 3

NGĂN CHẶN SỰ XẤU XA

New Delhi, ngày 15 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Một trong những vấn đề trọng yếu nhất liên quan đến con người là sự cần thiết phải ngăn chặn sự xấu xa. Có vẻ như thể tại những thời điểm nào đó trong lịch sử, bởi vì những hoàn cảnh khác nhau, sự xấu xa đã có một phạm vi rộng lớn hơn mà nó vận hành trong đó. Những thể hiện của xấu xa rất nghiêm trọng, những vấn đề của xấu xa rất phức tạp đến độ cá thể không biết làm thế nào giải quyết được chúng.

 Anh sẽ nói gì về cách giải quyết được xấu xa? Liệu có một sự việc như xấu xa tách khỏi tốt lành?

Krishnamurti: Tôi không hiểu bạn có ý gì? Một bụi cây có nhiều gai – bạn gọi nó là xấu xa? Bạn gọi một con rắn có nọc độc là xấu xa? Không con thú dữ tợn nào là xấu xa – kể cả con cá mập lẫn con cọp.

 Vì vậy, bạn có ý gì qua từ ngữ xấu xa? Cái gì đó gây nguy hiểm? Cái gì đó có thể mang lại tai họa khủng khiếp, cái gì đó có thể gây ra đau đớn vô cùng, cái gì đó có thể hủy diệt hay ngăn cản ánh sáng của hiểu rõ? Bạn sẽ gọi chiến tranh là xấu xa? Bạn sẽ gọi những vị tướng, những người cai trị, những người chỉ huyxấu xa bởi bị họ giúp đỡ tạo ra chiến tranh, sự hủy diệt?

P: Những gì ngăn cản sự tự nhiên của những sự vật có thể được gọi là xấu xa.

Krishnamurti: Con người rất hung tợn, anh ấy là xấu xa?

P: Nếu anh ấy đang ngăn cản, nếu qua những ý định hiểm độc anh ấy đang khiến cho những sự vật đi chệch hướng...

Krishnamurti: Tôi chỉ đang thắc mắc từ ngữ xấu xa đó có ý nghĩa gì? Xấu xaý nghĩa gì đối với một cái trí thông minh; một cái trí mà nhận biết được tất cả những kinh hoàng trong thế giới?

P: Xấu xa là những sự việc làm chật hẹp ý thức, những sự việc tạo ra sự tối tăm.

Krishnamurti: Sợ hãi, phiền muộn, đau khổ tạo ra việc đó. Bạn sẽ nói rằng xấu xa là sự khuyến khích của sợ hãi? Liệu xấu xa là một phương tiện gia tăng sự đau khổ? Liệu xấu xatình trạng bị quy định của môi trường và xã hộiliên tục gây ra chiến tranh? Tất cả những sự việc này giới hạn ý thức và tạo ra tối tămđau khổ. Xấu xa, tùy theo ý tưởng Thiên chúa giáo, là ma quỉ. Liệu người Ấn giáo có bất kỳ ý tưởng nào về xấu xa? Nếu anh ấy có một ý tưởng xấu xa, nó sẽ là gì? Thuộc cá nhân, tôi không bao giờ nghĩ về xấu xa.

 Bạn sẽ nói rằng trong sự nở hoa của tốt lành, không có xấu xa gì cả chứ? Rằng trạng thái này không biết đến xấu xa? Hay xấu xa là một sáng chế của cái trí mà nuôi dưỡng sợ hãi và tạo ra tốt lành?

P: Tôi xin được phép nói điều gì đó chứ? Nếu anh thâm nhập sâu thẳm vào những ngõ ngách của cái trí con người, vào lịch sử của nhân loại, luôn luôn có người thầy, mụ phù thuỷ mà phá hoại luật lệ của thiên nhiên, mà tạo ra sợ hãitối tăm. Nó là một trong những yếu tố lạ lùng nhất trong cái trí con người. Do bởi sự sợ hãi khủng khiếp này về cái không biết được, sự tối tăm đó mà không có giới hạn, không có kết thúc, mà lan tràn qua lịch sử của con người, nên con người mới van xin được bảo vệ; một kêu gào mà vang vọng khắp ý thức của con người. Chính việc này là một hỗn mang không danh tánh, không biết được của sợ hãi. Gợi ý rằng nó là sợ hãi cũng không đầy đủ. Nó là tất cả điều đó và còn nhiều hơn nữa.

Krishnamurti: Bạn đang nói rằng sâu thẳm trong con người, trong những ngõ ngách của cái trí, có sợ hãi về cái không biết được, về cái gì đó mà con người không thể tiếp xúc hay tưởng tượng? Bởi vì bị sợ hãi thật sâu thẳm, anh ấy cần đến sự bảo vệ của những thần thánh và, bất kỳ việc gì mà tạo ra một thức dậy của sự nguy hiểm đó, bất kỳ hàm ý nào gợi lên cái sự việc giấu giếm đó, anh ấy gọi là xấu xa?

P: Sự tối tăm này luôn luôn tồn tại sâu thẳm trong ý thức con người.

Krishnamurti: Xấu xa là đối nghịch của tốt lành hay nó hoàn toàn lệ thuộc vào tốt lành?

P: Nó độc lập khỏi tốt lành.

Krishnamurti: Bạn đang nói nó độc lập. Vậy thì, liệu xấu xa là cái gì đó mà trong chính nó không liên quan gì đến vẻ đẹp, đến tình yêu? Chống lại xấu xa, con người đã luôn luôn tìm kiếm sự bảo vệ, như anh ấy thường làm chống lại một con thú. Có sự nguy hiểm rình rập lén lút này. Con người nhận biết được nó, anh ấy sợ hãitìm kiếm qua những bùa chú, qua những lễ nghivân vân để xua đuổi nó đi và được bảo vệ. Bụi cây mà có đầy gai độc tự bảo vệchống lại thú vậtthú vật sẽ gọi đó là xấu xa bởi vì nó không thể ăn được những chiếc lá. Liệu có một lực lượng, một thể hiện của xấu xa hoàn toàn tách khỏi tốt lành, vẻ đẹp? Có toàn ý tưởng rằng xấu xa đang đấu tranh với tốt lành. Xấu xa này được biết đến khi thể hiện trong con người, và luôn luôn xấu xa đang đấu tranh với tốt lành và sự hòa nhã. Tôi đang hỏi liệu xấu xa hoàn toàn độc lập khỏi tốt lành? Bạn phải rất cẩn thận để không trở nên mê tín.

P: ‘Sợ hãi’ về cái gì đó đối nghịch với tốt lành. Nhưng những sợ hãi giấu giếm nhất lại không phải ‘về bất kỳ cái gì’.

S: Nó không những là sự bảo vệ và sự sợ hãi và sự sợ hãi đó được bao hàm trong xấu xa, nhưng còn cả sự bảo vệ với mục đích để tiến về phía trước.

P: Nhu cầu cho sự bảo vệ, những câu thần chú như những bùa mê, những vòng tròn như những biểu đồ ma thuật và những cử động ngón tay như những cử chỉ ma thuật được dự tính để cung cấp sự bảo vệ chống lại xấu xa.

Krishnamurti: Bạn thấy, khi bạn thâm nhập sâu thẳm vào ý thức, bạn đến được một vị trí nơi cái không biết được xuất hiện như sự tối tăm, và ở đó bạn ngừng lại, bởi vì bạn sợ hãi. Cái trí xuyên thấu sâu thẳm đến một vị trí, và đằng sau vị trí đó có cảm giác của sự trống không tối tăm này. Bởi vì gặp gỡ sự tối tăm, bạn có những cầu nguyện, những bùa chú, và bởi vì sợ hãi sự tối tăm, bạn van xin được bảo vệ. Liệu cái trí có thể xuyên thủng sự tối tăm, mà có nghĩa liệu cái trí có thể không còn sợ hãi? Liệu nó có thể vận hành để cho sự tối tăm trở thành ánh sáng? Liệu bạn có thể xuyên thủng sự tối tăm của cái mà bạn sợ hãi, mà bạn đã đặt tên là ‘xấu xa’? Liệu bạn có thể hoàn toàn xuyên thủng cái đó trọn vẹn đến độ sự tối tăm không còn tồn tại? Lúc đó, xấu xa là gì?

P: Khi cái vòng tròn nghi thức mandala được vẽ ra, lối vào cái vòng tròn là qua bùa chú và ma thuật. Trong lối vào sự tối tăm này, bùa chú mà sẽ mở toang những cánh cổng là gì?

Krishnamurti: Ý thức như sự suy nghĩ, tự thâm nhập vào chính nó – chiều sâu của nó. Khi nó thâm nhập, nó bắt gặp sự tối tăm này. Sự thâm nhập này không là một qui trình của thời gian. Và bạn đang hỏi ma thuật hay năng lượng mà sẽ xuyên thủng tận đáy của sự tối tăm là gì, năng lượng đó là gì và làm thế nào nó hiện diện được?

 Chính năng lượng mà bắt đầu thâm nhập vẫn còn ở đó, mãnh liệt thêm, sinh động thêm khi nó thâm nhập, xuyên thủng. Tại sao bạn hỏi liệu có nhu cầu của năng lượng to tát hơn?

P: Bởi vì năng lượng bị cạn kiệt. Chúng ta xuyên thủng đến một vị trí và không sâu thêm nữa.

Krishnamurti: Bởi vì sợ hãi, bởi vì kinh hoàng cái gì đó mà chúng ta không biết, chúng ta làm hao tán năng lượng thay vì tập trung nó lại. Tôi muốn xuyên thủng vào chính tôi. Tôi thấy đang thâm nhập vào chính tôi là cùng chuyển động như bên ngoài. Nó đang thâm nhập vào không gian. Trong thâm nhập vào không gian, có một nhu cầu nào đó, một năng lượng nào đó. Năng lượng đó phải không có bất kỳ sự nỗ lực, không có bất kỳ sự biến dạng. Khi nó thâm nhập, nó thâu gom động lượng. Nếu nó không có con đường mà qua đó nó có thể tẩu thoát, nó không bị biến dạng. Nó trở nên thăm thẳm hơn, rộng rãi hơn, mãnh liệt hơn. Sau đó, bạn đến một vị trí nơi có sự tối tăm. Và làm thế nào người ta thâm nhập sự tối tăm đó bằng năng lượng vô cùng này? (Ngừng).

P: Nghi vấn đầu tiên mà chúng ta bắt đầu là làm thế nào xấu xa này sẽ được ngăn chặn? Anh đã nói khi người ta xuyên thủng vào đại dương của sự tối tăm, tối tăm không hiện diện; ánh sáng hiện diện. Nhưng khi có xấu xa trong những con người, trong những hoàn cảnh nào đó, trong những xảy ra nào đó, liệu có bất kỳ hành động nào mà có thể ngăn chặn được xấu xa này?

Krishnamurti: Tôi sẽ không trình bày nó theo cách đó. Kháng cự lại xấu xa củng cố thêm xấu xa. Vì vậy nếu cái trí đang sống trong tốt lành, vậy thì không có kháng cự và xấu xa không thể tiếp xúc nó. Vì vậy không có ngăn chặn sự xấu xa.

P: Lúc đó chỉ có tốt lành?

Krishnamurti: Chúng ta phải quay trở lại điều gì khác – cái trí đã thâm nhập vào sự tối tăm và nó kết thúc sự tối tăm. Nhưng liệu có xấu xa mà tách khỏi tất cả điều đó? Hay xấu xa là bộ phận của tốt lành?

 Bạn thấy trong thiên nhiên có những con vật lớn đang sống dựa vào những con vật nhỏ, những con vật lớn hơn dựa vào những con vật lớn. Tôi sẽ không gọi điều đó là xấu xa. Sự ham muốn cố ý để gây tổn thương một người khác; đó là bộ phận của xấu xa? Tôi muốn gây tổn thương một người khác, đó là bộ phận của xấu xa? Tôi muốn gây tổn thương bạn bởi vì bạn đã làm điều gì đó đối với tôi; đó là xấu xa?

P: Đó là bộ phận của xấu xa.

Krishnamurti: Vậy thì, điều đó hàm ý ý muốn. Bạn gây tổn thương tôi, và, bởi vì tôi kiêu ngạo, tôi muốn trả thù. Mong muốn trả thù là một hành động của ý muốn. Dù nó là ý muốn để phản ứng hay để làm tốt lành, cả hai đều là xấu xa.

P: Quay lại vòng tròn nghi thức mandala; xấu xa có thể len lỏi vào khi những cái cổng không được bảo vệ. Ở đây, hai mắt và hai tai của anh là những cái cổng.

Krishnamurti: Vậy là bạn đang nói khi hai mắt thấy minh bạch, hai tai nghe rõ ràng, lúc đó xấu xa không thể len lỏi vào.

 Để quay lại, ý định cố ý, sự tập hợp của những ý định, suy nghĩ nó lặp đi và lặp lại, mà tất cả đều là ý định sâu thẳm để gây tổn thương, là bộ phận của ý muốn. Tôi nghĩ đó là nơi xấu xa hiện diện – hành động cố ý để gây tổn thương. Bạn gây tổn thương tôi, tôi gây tổn thương bạn; tôi xin lỗi và nó kết thúc. Nhưng nếu tôi giữ lại, nhớ lại, củng cố một cách cố ý, tuân theo một kế hoạch để gây tổn thương bạn, mà là bộ phận của ý muốn trong con người để làm tổn thương hay không làm tổn thương, vậy thìxấu xa.

 Vì vậy, liệu có một cách sống mà không có ý muốn? Khoảnh khắc tôi kháng cự, xấu xa phải ở một bên, và tốt lành ở phía bên kia và có sự liên quan giữa hai. Khi không có kháng cự, không có sự liên quan giữa hai. Và lúc đó tình yêu là một không gian khoáng đạt, không có bất kỳ từ ngữ nào, không có bất kỳ kháng cự nào. Tình yêu là hành động từ trống không. Như ngày hôm qua chúng ta đã bàn luận, khi một cách cố ý những nguyên tố đực khẳng định, đòi hỏi, sở hữu, thống trị, con người mời mọc xấu xa. Và những nguyên tố cái, nhượng bộ, nhượng bộ, nhượng bộ và cố ý nhượng bộ với mục đích để thống trị, cũng mời mọc xấu xa.

 Vậy là, nơi nào có sự theo đuổi ma mãnh của sự thống trị, mà là sự vận hành của ý muốn, có sự khởi đầu của xấu xa.

 Bạn thấy, chúng ta cố gắng bảo vệ chính chúng ta chống lại sự xấu xa đó. Chúng ta đang tự tạo ra xấu xa cho chính chúng tatuy nhiên chúng ta lại vẽ một vòng tròn, một lược đồ quanh bậc thềm cửa của ngôi nhà để tìm kiếm sự bảo vệ chống lại sự xấu xa, và phía bên trong con rắn của xấu xa đang vận hành.

 Hãy giữ sạch sẽ ngôi nhà của bạn. Hãy quên đi tất cả những bùa chú; không gì có thể chạm đến bạn.

 Chúng ta xin xỏ sự bảo vệ của những thần thánh, những người mà chúng ta đã sáng chế. Thật là quái đản.

 Tất cả những chiến tranh này, tất cả những hận thù chủng tộc này, tất cả những hận thù chồng chấtcon người đã và đang lưu trữ, việc đó phải có một hận thù tập hợp, một xấu xa tập trung. Những người Hitler, những người Mussolini, những người Stalin, những trại tập trung, những người Atilla; tất cả việc đó phải được lưu trữ, phải có một bộ phận nơi nào đó.

 Cũng thế, cảm thấy của ‘đừng giết chóc, hãy tử tế, hãy hòa nhã, hãy từ bi’ – cảm thấy đó cũng phải được lưu trữ nơi nào đó.

 Khi người ta cố gắng tự bảo vệ mình chống lại một điều, xấu xa, người ta cũng đang tự bảo vệ mình chống lại tốt lành, bởi vì con người đã tạo ra hai điều này. Vì vậy, liệu cái trí có thể thâm nhập vào sự tối tăm và chính thâm nhập vào nó, là xua tan sự tối tăm?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33503)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6635)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11424)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30485)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30506)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8055)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12307)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12331)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11690)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12965)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34960)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9914)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52359)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10838)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10598)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10789)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10550)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13152)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16375)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21962)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9698)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7199)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10463)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12884)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12865)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16324)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16611)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13941)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16678)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12217)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13937)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14389)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9285)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11819)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11345)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16442)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14433)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16269)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12768)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12163)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11868)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15764)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11594)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14100)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12090)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12739)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15065)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12031)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13203)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14630)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20826)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13317)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11030)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20800)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14455)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20504)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17751)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14112)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31943)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12091)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant