Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Chương Thứ Năm

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 11862)
5. Chương Thứ Năm
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ


Chương thứ năm

Luận về Phật A-di-đà

Tiết thứ nhất

Phật A-di-đà

Phật A-di-đà và Phật A-súc giống nhau, đồng là một Đức Phật trong các Đức Phậtmười phương hiện tại. Nhân hạnh của Phật A-súc từ đời quá khứ đã tịnh hóa thế giới A-tỉ-la-đề ở phương đông. Ở trong nước này, Ngài giáo hóa chúng sanh. Đời quá khứ Phật A-di-đà cũng phát đại nguyện kiến tạo cõi Phật thanh tịnh, thế giới Cực Lạc trang nghiêm ở phương tây. Hiện nay, Ngài đang ở cõi nước này thuyết pháp độ chúng sanh.

 

Tiết thứ hai

Nhân vị phát tâm tu hành

Nói về Phật A-di-đà, trong các kinh Đại thừa đã ghi rải rác rất nhiều, đặc biệt trong kinh Đại A-di-đà và các bản dịch khác của kinh Vô Lượng Thọ đều ghi lại sự tướng nhân vị phát tâm tu hành của Phật A-di-đà. Nay y theo kinh Vô Lượng Thọ thuật lại sơ lược như sau:

Vào đời quá khứ, trải qua vô số kiếp có Đức Phật Định Quang xuất hiệnthế gian, kế đến có Phật Quang Viễn cùng hơn năm mươi Đức Phật lần lượt xuất hiện ở đời. Sau đó, có Đức Phật Thế Tự Tại Vương ra đời. Khi đó, có nhà vua đi đến chỗ Đức Phật Thế Tự Tại Vương nghe Đức Phật thuyết pháp và rất cảm ngộ, liền phát tâm Vô thượng bồ-đề. Do đó, nhà vua từ bỏ ngai vàng, xuất gia làm sa-môn, hiệu là Pháp Tạng. Sa-môn Pháp Tạng nghe Đức Phật giảng nói hạnh nguyện cõi Phật thanh tịnh, lại thấy rõ ràng hai trăm mười ức cõi nước của chư Phật. Sa-môn liền phát khởi đại nguyện chọn lấy cõi Phật trang nghiêm. Sau đó trải qua hàng triệu kiếp, sa-môn Pháp Tạng nỗ lực tinh tiến vun trồng vô lượng đức hạnh, tu hành sáu pháp ba-la-mật, cũng dạy người tu hành. Về sau, ngài làm trưởng giả, cư sĩ, hay sát-đế-lợi, nhà vua, Chuyển luân thánh vương, cho đến làm thiên vương sáu cõi Dục, Phạm vương thường đem bốn món cần dùng cúng dường tất cả chư Phật. Sa-môn Pháp Tạng dũng mãnh tinh tiến, chí nguyện không thoái lui; đến nay trải qua mười kiếp thành Đẳng Chính Giácthế giới Cực Lạc trang nghiêm ở phương tây. Đây là nói rõ sự thật lịch sử của Phật A-di-đà.

Trong kinh Đại A-di-đà cũng đã ghi lại đại khái giống kinh này, chỉ kinh Bi hoa ghi hơi khác. Theo kinh Bi hoa, xưa kia Phật A-di-đà làm Chuyển luân thánh vương, tên Ngài gọi là Vô Tránh Niệm có một nghìn vương tử. Nhà vua thờ Đức Phật Bảo Tạng làm thầy. Vua có đại thần tên Bảo Hải (là tiền thân của Phật Thích-ca) khuyên vua Vô Tránh Niệm đến nghe Đức Phật Bảo Tạng thuyết pháp, nghe pháp xong vua liền phát tâm xuất gia, đổi tên là Vô Lượng Thanh Tịnh. Chẳng bao lâu, Vô Lượng Thanh Tịnh phát đại nguyện kiến tạo cõi Phật thanh tịnh, trang nghiêm Tịnh độ. Bấy giờ, một nghìn vương tử của vua cũng noi theo phụ vương lần lượt phát tâm xuất gia, họ đều phát nguyện thành Phật trong cõi nước thanh tịnh. Các vị bồ-tát như: Quán Âm, Thế Chí, Phổ Hiền, Văn Thù và A-súc đều là một trong nghìn vương tử ấy. Thuyết này tham chiếu theo kinh Tăng nhất A-hàm quyển 38, ghi lại Phật Bảo Tạng thụ ký và Địa chủ vương bản sanh cùng kinh này, quyển 13 ghi lại, nhiều người cho là từ sự mở rộng và nhuận sắc các điều vừa nêu trên trong kinh Tăng nhất A-hàm mà thành ra phần đầu của kinh Vô Lượng Thọ.

Ngoài ra còn có các kinh khác, như kinh Tuệ ấn tam-muội, kinh Vô lượng môn vi mật trì, kinh Hiền kiếp, quyển 2, 3; kinh Quán sát chư pháp hành quyển 2; kinh Pháp hoa quyển 3; kinh Quyết định tổng trì, kinh Lại-tra-hòa-la sở vấn Đức Quang, kinh Đại pháp cự đà-la-ni, quyển 17 đều ghi đời quá khứ Phật A-di-đà làm Chuyển luân thánh vương; hoặc làm quốc vương, vương tử, tì-kheo, hay người thuyết pháp, phụng thờ nhiều Đức Phậtthực hiện nhiều Phật sự. Những điều này nói cho thấy vào thời quá khứ lâu xa, Đức Phật A-di-đà đã thụ nhiều loại thân và nói về sự tích Ngài tu hành khổ hạnh.

 

Tiết thứ ba

Ý nghĩa Quang, Thọ Vô Lượng

Nay y theo Phật A-di-đà thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng, cho đến công đức vô lượng làm chủ đề nói về Đức Phật. Danh hiệu A-di-đà (Amita) nghĩa là không có hạn lượng, cho nên Hán dịch là vô lượng, ý nói quang minhthọ mạng vô lượng. Đời Ngô, ngài Chi Khiêm dịch kinh Duy-ma-cật, quyển hạ; đời Tào Ngụy, ngài Bạch Diên dịch kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác quyển 2, và kinh Hậu xuất A-di-đà kệ v.v… các kinh xưa đã dịch là vô lượng giác, vô lượng tôn, phải nói là dịch rất chính xác. Lại nữa, trong kinh A-di-đà, đời Diêu Tần ngài Cưu-ma-la-thập dịch: “ Hỏi: Vì sao Đức Phật đó gọi là A-di-đà? Đáp: Vì Đức Phật này quang minh vô lượng, chiếu khắp cõi nước mười phương, không có chướng ngại, nên gọi là A-di-đà”. Lại nữa: “Thọ mạng của Đức Phật đó và thọ mạng của nhân dân cũng vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cho nên gọi là A-di-đà”. Bởi vì, Đức Phật đó quang minh vô lượng; vả lại, thọ mạng của Đức Phật đó và thọ mạng của nhân dân cũng vô lượng vô biên; nên Phật A-di-đà có tên Phật Vô Lượng. Đây là nói về nguồn gốc danh hiệu của Ngài.

Lại nữa, hai mươi bốn nguyện nói trong kinh Đại A-di-đàliên quan đến các loại văn phát nguyện. Nguyện thứ mười chín nói: “Tuổi thọ của Phật A-di-đà đến mấy nghìn vạn ức kiếp, chẳng phải năng lực của con người có thể biết được hạn lượng tuổi thọ ấy”. Nguyện thứ hai mươi mốt nói: “Thọ mạng của các bồ-tát và a-la-hán ở cõi nước Phật A-di-đà cũng vô số kiếp”. Nguyện thứ hai mươi bốn nói: “Ánh sáng của Đức Phật đó hơn cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng gấp trăm nghìn vạn ức lần, chiếu sáng khắp thiên hạ; chỗ nào cũng đều được Ngài phóng đại quang minh chiếu đến”.

Căn cứ theo thuyết này, thọ mạng của Phật A-di-đà vô lượngĐức Như Lai quang minh vô lượng, đồng thời cũng biết được thọ mạng của nhân dân ở nước Ngài cũng là vô lượng là điểm rất quan trọng. Đời sau căn cứ vào các điều của kinh này đã ghi, gọi Đức Phật đó là Phật Vô Lượng Thọ (Amitāyus); hoặc là Phật Vô Lượng Quang (Amitabha), trong rất nhiều kinh cũng có nói đến danh hiệu này.

Lời tựa, trong kinh Vô Lượng Thọ, bản Phạn ghi: “Quy mạng Vô Lượng Thọ, quy mạng Vô Lượng Quang”. Hán dịch tên kinh là kinh Đại thừa Vô Lượng Thọ trang nghiêm. Tây Tạng dịch kinh này tên là kinh Đại thừa thánh Vô Lượng Quang trang nghiêm. Những đề kinh này có thể lấy làm thí dụ.

Nhưng vào đời Đường, ngài Huyền Trang dịch kinh Xưng tán Tịnh độ Phật nhiếp thọ và bản Phạn trong kinh A-di-đà đã ghi: “Hỏi: Vì sao Đức Phật đó tên là Vô Lượng Thọ? Còn gọi là Vô Lượng Quang? Cũng đều đáp như trong kinh A-di-đà đã ghi đồng một câu văn. Theo căn cứ này thì lúc đầu Đức Phật đã có tên gọi Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang. Do vì, lúc đầu lấy tên Ngài là Vô Lượng Thọ để giải thích thọ mạng vô lượng. Vô Lượng Quang là nói ý nghĩa ánh sáng vô lượng; ngoài ra còn có thêm phần hỏi đáp. Đây là lý do của danh hiệu Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang trong hai kinh này, đến đời sau lại thêm hai chữ Quang, Thọ, tức là nguyên danh của Đức Phật đó. Như kinh A-di-đà, ngài La-thập dịch chỉ lấy nghĩa “vô lượng” để giải nói về A-di-đà (Amita); đây là định nghĩa đúng nhất.

Tiết thứ tư

Ý nghĩa thanh tịnh vô lượng

Danh hiệu của A-di-đà không chỉ có hai ý nghĩathọ mạng vô lượngquang minh vô lượng. Xưa nay giải thíchgồm có ý nghĩa thanh tịnh vô lượngquyến thuộc vô lượng. Kinh Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác gọi Phật A-di-đà là Phật Vô Lượng Thanh Tịnh. Lại nữa, kinh Bi hoa quyển 3 ghi: “Danh là nhân vị của Phật A-di-đà, hiệu là Vô Lượng Thanh Tịnh”. Tức là trong ý nghĩa vô lượng thanh tịnh đã bao gồm danh hiệu của A-di-đà. Bát-nhã lý thú thích quyển hạ, giải thích nghĩa này là Tự Tính Thanh Tịnh Pháp Tính Như Lai, cũng là tên khác của Quán Tự Tại Như Lai. Như thế, tức là chỉ Đức Phật đó tên là Vô Lượng Thọ. Quán Tự Tại ấy là Tự Tính Thanh Tịnh Như Lai, gọi là A-di-đà; đây là một cách giải thích thanh tịnh vô lượng.

Kinh Quán sát chư pháp hành quyển 2, ghi: Trong câu chuyện bản sanh đời quá khứ của Phật A-di-đà, tiền thân của Ngài được phúc báo thanh tịnh nên có nhiều người ái mộ, tên Ngài là vương tử Tự Tại. Nhân có bồ-tát thuyết pháp, sau khi nghe xong, vương tử quyết định quán sát các pháp, hành Tam-ma-địa. Về sau, vương tử, ở trong cõi Phật Vô Biên Công Đức Bảo Trang Nghiêm, chứng đắc Vô thượng chính đẳng chính giác. Vô lượng là nói có thọ mạng vô lượng, chúng thanh văn vô lượng, chúng bồ-tát vô lượng, quang minh vô lượng, nguyện công đức trang nghiêm vô lượng. Ở đây nói hai ý nghĩa thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng là đồng một ý nghĩa trước đây nói ở trong kinh A-di-đà.

Chúng thanh văn vô lượng, chúng bồ-tát vô lượng cũng giống như kinh A-di-đà đã ghi: “Đức Phật đó có đệ tử thanh văn nhiều vô lượng vô biên, đều là bậc a-la-hán, không thể nào tính đếm mà có thể biết được; chúng bồ-tát cũng lại như vậy”. Đoạn này cùng với nguyện hai mươi kinh Đại A-di-đà ghi: “Nếu người muốn biết mấy nghìn vạn ức bồ-tát và a-la-hán ở trong nước tôi đều không thể biết được con số”, ý nghĩa khá giống nhau.

Lại nói nguyện công đức trang nghiêm vô lượngdanh hiệu cõi Phật Vô Biên Công Đức Bảo Trang Nghiêm, là do Đức Phật đó lúc ở nhân địa phát nguyệnchiêu cảm được Tịnh độ công đức trang nghiêm vô lượng. Kinh Xưng tán Tịnh độ ghi: “Cõi Phật thanh tịnh của Phật Vô Lượng Thọ là do vô lượng công đức trang nghiêm”. Lại trong bài tựa kinh Vô Lượng Thọ, bản Phạn ghi: “Người quy y thì được đầy đủ công đức không thể nghĩ bàn”. Kinh này với kinh Vô Lượng Thọ đà-la-ni, bản Phạn ghi khá giống nhau “Tịnh độ của Di-đà có ý nghĩavô lượng công đức tạng”. Trong với Thai tạng kim cang bồ-đề tâm nghĩa lược vấn đáp sao, cuối quyển 5 của ngài An Nhiên cũng ghi: “Đức Phật đó cũng gọi là Vô Lượng Thọ, tiếng Phạn là A-di-đà-du-sái (Amitayus); còn có tên A-di-đà-bà-da-một-đà (Amitabhayabddha), Hán dịch là Phật Vô Lượng Quang Minh. Đức Phật đó thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng, quyến thuộc vô lượng, tất cả đều vô lượng. Lấy những điều này mà đặt danh hiệu, vì Đức Phật đó tất cả đều vô lượng”. Vì thế, danh hiệu của Phật A-di-đà có rất nhiều ý nghĩa, cho nên không thể lấy một ý nghĩa.

Nói tóm lại, Phật A-di-đà (Amita) có hiệu là Phật Vô Lượng. Kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ ghi: “Người nghe danh hiệu Ngài phát sanh lòng tin hoan hỷ”. Kinh Xưng tán Tịnh độ ghi: “Người nghe danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ được công đức vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn, nghe rồi tư duy”. Có rất nhiều kinh cổ xúy công đức danh hiệu của Phật A-di-đà, chính là căn cứ vào một lý do này.

 

Tiết thứ năm

Quan niệm về Đức Phậtlý tưởng của người tu theo Đại thừa

Thuyết quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượngcăn cứ vào các bộ phái thời đại trước đây qui kết vào công đức đối với thánh đức lý tưởng của Thích Tôn. Đại Chúng bộ trong luận Thập bát bộ, tông này nói đồng ý nghĩa này: “Đức Thế Tônxuất thế gian, Như Lai chẳng phải pháp thế gian; Như Lai sắc vô biên, quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng”. Lại trong bản dị dịch là luận Dị bộ tông luân ghi: “Sắc thân Như Lai thật vô cùng tận, uy lực của Như Lai cũng vô cùng tận, thọ mạng của chư Phật cũng vô cùng tận”. Đây là quan điểm về Đức Phật theo Đại Chúng bộ, tức là nói sự tồn tại chân thân của Thích Tôn là quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng, thân lượng vô biên.

Phật giáo Đại thừa phát triển mạnh mẽ, chúng sanh tin chắc mình có khả năng thành Phật. Khi bồ-tát đợi mình thành Phật, cũng lấy quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng này làm lý tưởng, hướng đến sự hiện thực của lý tưởng.

Nguyện thứ hai mươi bảy, trong kinh Phóng quang bát-nhã ghi: “Trước khi tôi chưa thành A-duy-tam Phật, thì trước tiên phải biết thọ mạng, quang minh của tôi và số tì-kheo tăng; sau đó, mới thành A-duy-tam Phật. Còn tất cả mọi người không ai biết kiếp số, tuổi thọ và số tì-kheo tăng ở cõi nước tôi”. Nguyện thứ hai mươi mốt ghi: “Khi tôi thành Phật, nguyện mọi người trong nước tôi đều sống mãi, không có giới hạn”.

Lại nữa, phẩm Tựa trong kinh Đại phẩm bát-nhã quyển 1 ghi: “Khi tôi đắc Vô thượng chính đẳng chính giác lấy vô lượng a-tăng-kì thanh văn làm tăng. Khi tôi thuyết pháp lần đầu, người ngồi nghe pháp đều là thanh văn đắc A-la-hán. Tôi sẽ lấy vô lượng a-tăng-kì bồ-tát làm tăng. Khi tôi thuyết pháp lần đầu, vô lượng a-tăng-kì bồ-tát đều đắc A-bệ-bạt-trí. Nếu bồ-tát muốn được thọ mạng vô lượng, quang minh đầy đủ thì nên học bát-nhã ba-la-mật”. Cũng chính là nói ý nghĩa này.

Điều này cũng chứng minh người theo Đại thừa lấy thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng, chúng thanh văn vô lượng, chúng bồ-tát vô lượng v.v… làm lý tưởng của họ. Đồng thời cũng biết quan niệm về Đức Phật của họ. Quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng làm thuyết lý tưởng của người tu theo Phật giáo Đại thừathời kỳ đầu và biết chắc rằng người thực hiện được lý tưởng của họ là người giác ngộ trước họ, nên họ chấp nhận sự tồn tại của Phật A-di-đà; tức là Phật A-di-đà là người có quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng, thật phù hợp lý tưởng của họ.

Vào đời quá khứ, Phật A-di-đà phát đại nguyện kiến tạo cõi Phật thanh tịnh, Ngài đã thành tựu hạnh nguyện này, chính là thế giới Cực Lạc ở phương tây, thuộc về hiện tại, chẳng phải vị lai; lấy cõi Phật thanh tịnh làm mục tiêu, bồ-tát không thể không tinh tiến đi theo bước chân của bậc giác ngộ trước.

Tiết thứ sáu

Quang, thọ vô lượng và Thích Tôn

Qua sự khảo sát Đại Chúng bộ đối với sự tồn tại quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng của chân thân Đức Thích Tôn như văn trên đã ghi. Đến thời đại Đại thừa, lại khảo sát tiến lên một bước, quan niệm về Đức Phật càng phát đạt lạ thường. Kinh Thủ-lăng-nghiêm tam-muội quyển hạ ghi: “Năm tám mươi tuổi, Thích Tôn nhập Niết-bàn là phương tiện thị hiện. Kỳ thật, thọ mạng của Phật Thích-ca cùng với thọ mạng của Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương Như Laithế giới Trang Nghiêm, phương đông như nhau, là thọ bảy trăm a-tăng-kì kiếp”. Phẩm Như Lai thọ lượng, trong kinh Pháp hoa quyển 5 ghi: “Thích Tôn đã thành Phật từ kiếp trước lâu xa về trước nhiều như số trần điểm. Từ đó đến nay, khi thành Phật thọ mạng càng tăng lên”.

Phẩm Thọ lượng trong kinh Kim quang minh quyển 1 ghi: “Mọi người không thể biết nước trong tất cả các dòng sông và biển cả có bao nhiêu giọt, thọ mạng của Thích Tôn không thể tính đếm, trăm nghìn ức kiếp, vô lượng vô biên”. Các kinh đều nói thọ mạng lâu dài của Phật. Đây là khảo sát sâu thêm một bậc đối với thọ mạng vô lượng của Đức Phật. Lại nữa, kinh Hoa nghiêmkinh Quán Phổ Hiền bồ-tát hành pháp đều ghi: “Chân thân của Thích Tôn gọi là Phật Tì-lô-giá-na, Hán dịch là Quang Minh Biến Chiếu”. Quang Minh Biến Chiếu này càng phát huy tư tưởng Thích Tôn là quang minh vô lượng. Vì thế, qua sự khảo sát, chúng ta có thể biết được Thích Tôn cũng có báo thân quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng. Đặc biệt phẩm Thọ lượng trong kinh Pháp hoa nói đến: “Trí tuệ chiếu vô lượng, thọ mạng vô số kiếp”. Chính là ca ngợi Thích Tôn là Đức Như Lai quang, thọ vô lượng. Tự thể này cùng với tự thể của Phật A-di-đà, phải nói chẳng có điều gì bất đồng.

Thời cổ đại không ít người đề xướng Di-đà, Thích-ca đồng thể. Phẩm Thọ lượng trong kinh Pháp hoa nghĩa ký, quyển 8 của ngài Pháp Vân, đời Lương, giải thích kinh văn: “Hoặc thị hiện thân mình, hay thị hiện thân khác” là nói: “Thân mình là Thích-ca, thân khác là Di-đà”. Lại nữa, phẩm Tín giải đồng kinh này quyển 5, đã nói “trưởng giả” tức lấy bản thân Đức Thích-ca làm Phật A-di-đà; đây gọi là pháp thân.

Trong Pháp hoa lược nghi quyển thượng của ngài Viên Trân ghi: “Phẩm Thọ lượng, kinh này nói về Phật A-di-đà ở phương tây. Tiếng Phạn là A-di-đà-dữu-sái, Hán dịch là Vô lượng thọ. Nghĩa là phẩm này nói thọ mạng của Ngài thật lâu dài”. Trong Bí tạng của ngài Không Hải, ghi: “Tên gọi Cực LạcHoa Tạng tuy khác, nhưng chỗ ở chẳng khác”. Ngũ luân cửu tự minh bí mật thích của ngài Giác Sỏa, ghi: “Trong Hiển giáo, ngoài Thích Tôn còn có Di-đà. Đại Nhật trong Mật tạng tức là Di-đà; cho đến Tì-lô và Di-đà đồng thể nhưng khác tên gọi. Cực LạcMật Nghiêm tên khác, nhưng ở một chỗ”. Các tác phẩm trên đều nói ý này. Vì thế, nên biết hai ý nghĩa quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng ở trong hai Đức Phật hoàn toàn không có sai khác.

Tiết thứ bảy

Chân pháp thân của Thích Tôn không diệt độ

Trong kinh Niết-bàn nói báo thân của Thích Tôn vẫn còn tồn tạithế giới khác. Kinh Đại Niết-bàn quyển 24 ghi: “Cách đây bốn mươi hai Hằng hà sa cõi nước Phật, ở phương tây có thế giới tên là Vô Thắng, Ta thường ở cõi này, vì giáo hóa chúng sanh nên Ta xuất hiện ở Diêm-phù-đề”. Kinh này lấy thế giới Vô Thắng ở phương tây làm Tịnh độ báo thân của Thích Tôn. Kinh Thủ-lăng-nghiêm tam-muội quyển hạ ghi: “Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương Như Laithế giới Trang Nghiêm phương đông và Thị Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương Như Laithế giới Nhất Đăng Minh phương trên đều là tự thân của Phật Thích-ca”.

Kinh Phật thăng Đao-lợi thiên vị mẫu thuyết pháp quyển hạ ghi: “Ly Cấu Ý Như Laithế giới Vô Cấu phương đông; Bảo Thể Phẩm Như Laithế giới Bảo Sinh phương nam; cho đến Tâm Niệm Mẫn Ai Như Laithế giới Chí Nguy phương đông bắc đều là tự thân của Thích Tôn”.

Kinh Ương-quật-ma-la quyển 3 ghi: “Vô Lượng Tuệ Công Đức Tích Tụ Địa Tự Tại Vương Như Lai ở nước Vô Lượng Lạc phương bắc; Thiện Vị Thượng Như Lai ở nước Thiện Vị phương đông; cho đến Sư Tử Du Hí Như Lai ở nước Sư Tử Tích Tụ phương dưới v.v…các Đức Phật đều nói cho các bồ-tát biết rằng Thích-ca Mâu-ni Như Laithế giới Ta-bà tức là thân Ta’ ”. Các kinh đều có ghi điều này.

Kỳ thật, Phật Thích-ca xuất hiện ở Diêm-phù-đề là hóa thân Phật, nói chân thân Phật đúng là ở thế giới ở phương khác. Kinh Niết-bàn chỉ nói thế giới duy nhất ở phương tây; bởi vì, theo giáo lý kiến tạo cõi Phật thanh tịnh, tất nhiên một vị Phật ở một cõi nước. Nhưng nay lấy các thế giới từ phương đông, phương tây; cho đến tám phương, mười phương v.v… mỗi thế giới đều có chân thân của Thích Tôn tồn tại. Nếu như thế, là dựa trên chân pháp thân của Thích Tôn biến khắp vũ trụ, là ngầm lộ ra ý nghĩa pháp thân vĩnh viễn bất diệt.

Kinh Thủ-lăng-nghiêm tam-muội quyển hạ ghi: “Ban đầu Phật trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội không lay động, nhưng thân biến khắp vô lượng thế giới, thị hiện ở trong đó, theo sở thích của chúng sanh mà thuyết pháp”. Kinh Ương-quật-ma-la quyển 3 ghi: “Thế Tôn trụ ở Vô sanh, nhưng có lúc sanh ở chỗ này, chỗ kia. Thân Như Lai vô biên, nên ngài thị hiện cũng là vô biên”. Các kinh cũng nói ý này.

Phẩm Như Lai thọ lượng, trong kinh Pháp hoa quyển 5 ghi: “Như Lai thường ở núi Linh Thứu và ở các nơi khác”. Phẩm Hiện bảo tháp, đồng kinh này quyển 4, ghi: “Ba lần hiện thần ở biến thế giới này, tập hợp phân thân khắp mười phương”. Phẩm Lô-xá-na Phật, trong kinh Hoa nghiêm quyển 2 cựu dịchbài kệ:

Các lỗ chân lông hóa thân vân

Tùy căn chúng sanhgiáo hóa”.

Kinh Phạm Võng ghi: “Phật Lô-xá-na ngồi kiết-già trên đài hoa sen, trên nghìn cánh hoa có nghìn Đức Thích-ca, trong mỗi hoa đều có trăm ức tiểu Thích-ca, đồng thời cùng nói pháp môn Tâm địa bồ-tát”. Cũng đều đồng một ý nghĩa. Do đó, chúng ta nên nhận định là Thích Tôn không diệt độ, pháp thân Ngài biến khắp vũ trụ, là biểu tượng cụ thể tình cảnh thường thuyết pháp không ngừng nghỉ.

Như vậy, các kinh Thủ-lăng-nghiêm, Ương-quật-ma-la v.v… đã nói, chẳng chỉ nói có ngần ấy các Đức Phật mà trong các kinh Đại thừa nói rõ Hằng hà sa vô lượng các Đức Phậtmười phương đều biểu hiện cụ thể hóa chân pháp thân của Đức Thích Tôn.

 

Tiết thứ tám

Luận về Di-đà và Thích-ca đồng thể

Qua sự khảo sát, chúng ta thấy đời quá khứ của Phật A-di-đà giống như chân thân của Thích Tôn lấy quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng làm chủ tôn. Kinh Niết-bàn đã nói ở trên: “Tịnh độ của Thích Tôn là thế giới Vô Thắng ở phương tây; thế giới này trang nghiêm cũng giống thế giới An Lạc của Phật Di-đà”. Nhưng kinh Ương-quật-ma-la quyển 3 ghi: “Cách đây tám hằng hà sa cõi nước, ở phương tây bắc có cõi nước tên Vô Lượng, Đức Phật đó tên Vô Lượng Thọ. Chính Đức Phật đó bảo với Ương-quật-ma-la: Thích-ca Mâu-ni Như Lai chính là Ta”. Thuyết tám hằng hà sa cõi nước ở phương tây bắc, tuy không giống mười vạn ức cõi Phật ở phương tây, nhưng Đức Phật này là Vô Lượng Thọ, nên không còn nghi ngờ là chỉ cho Phật A-di-đà. Lại nói cõi nước Vô Lượng cũng cho rằng không ngoài dịch ngữ của A-di-đà. Cho nên, ở đây nói đúng Di-đà và Thích-ca là nhất thể.

Đề xướng giáo lý kiến tạo cõi Phật thanh tịnh, căn cứ vào kết quả khảo sát thì Phật A-di-đà là người giác ngộ trước của người tu theo Đại thừa. Thuyết ngài Pháp Tạng phát nguyện v.v… tuy nói Ngài là một Đức Phật trong Hằng hà sa các Đức Phậtmười phương, nhưng muốn xác định vốn là từ trí tuệ chiếu khắp vô lượng, thọ mạng vô số kiếp của Thích Tôn mà an lập có Phật A-di-đà và phương tây. Như trên đã nói sự quan hệ trong ngoài nhất thể của Phật A-di-đà và Thích Tôn, nếu trực tiếp lấy Thích Tôn làm trung tâm thì Hằng hà sa các Phật ở mươi phương là phân thân của Thích Tôn; đồng thời không ngoài việc cụ thể hóa chân thân của Thích Tôn không diệt độ. Nếu lấy Phật A-di-đà làm trung tâm, bắt đầu từ Thích Tôn thì không thể không nói Hằng hà sa các Đức Phậtmười phương đều là hình ảnh của Thích Tôn.

Nguyện thứ tư, trong kinh Đại A-di-đà nói: “Vô số các Đức Phậtcõi Phật trong mười phương nghe tên của tôi thì các Ngài đều ngồi giữa các tỳ-kheo tăng, khéo nói công đức của tôi và cõi nước trang nghiêm”. Kinh Xưng tán Tịnh độ ghi: “Hằng hà sa các Đức Phậtmười phương đều ca ngợi công đức cõi Phật vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn của Phật Vô Lượng Thọ”. Kinh Vô Lượng Thọ quyển thượng ghi: “Ánh sáng của Phật A-di-đà tối tôn đệ nhất, ánh sáng của các Đức Phật khác không thể sánh bằng”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Thấy Phật A-di-đà tức là thấy các Đức Phật ở mười phương”. Kinh Đại A-di-đà, quyển thượng ghi: “Cõi nước của Phật A-di-đà là cõi có các điều thiện trong cõi nước vô số các Đức Phậtmười phương, là hùng mạnh, là quí báu, là thọ mạng lâu dài, là chúng kiệt xuất, là rộng lớn, cũng là trung tâm trong cõi nước của vô số các Đức Phật ở mười phương”.

Phẩm Kệ tụng, trong kinh Đại thừa nhập lăng-già quyển 6 ghi: “Chúng sanh, bồ-tát trong cõi nước mười phương, tất cả là pháp thân, báo thân của Phật, hóa thânbiến hóa đều từ Vô Lượng Thọ trong cõi Cực Lạc sanh ra”. Các kinh lấy Phật A-di-đà làm bậc chí tôn trong các Đức Phậtmười phương, lấy thế giới Cực Lạc làm vương đô của cõi nước các Đức Phậtmười phương, tức là lấy thuyết Phật A-di-đà làm trung tâm.

Tóm lại, Di-đà và Thích-ca là đồng thể. Sau Phật Thích-ca có Phật A-di-đà chói sáng rực rỡ. Trong giới học giả nhận xét liên quan về nguồn gốc của Phật A-di-đà, họ cho rằng có những thần thoại thời cổ đại Ấn Độ xen tạp trong đó, như trong số nhiều các vị Phật, bồ-tát thì có thể có việc này. Nhưng hiện nay lấy việc đó để nói về Phật A-di-đà thì rất sai lầm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10399)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11664)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28821)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11454)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12386)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53087)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21412)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19260)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12426)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26057)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13326)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14394)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13737)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13141)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11619)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11631)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14517)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20494)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12194)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13870)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15047)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15048)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14001)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11410)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17204)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14987)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20225)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14630)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13859)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11720)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15074)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13006)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22900)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11674)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13178)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16894)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11511)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12896)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18436)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant