Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16. Chương Thứ Mười Sáu

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12702)
16. Chương Thứ Mười Sáu
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười sáu

Thuyết các thiện hạnh có thể vãng sanh hay không và các hạnh bản nguyện

Như trên đã nói, ngài Pháp Nhiên chủ trương nghĩa tuyển trạch bản nguyện niệm Phật, lấy xưng danh niệm Phật làm chính định nghiệpđiều kiện bản nguyện vãng sanh, phế bỏ các thiện hạnh khác chẳng phải hạnh bản nguyện. Trái lại, các vị đệ tử của ngài cho rằng, nếu không có các thiện hạnh khác thì có thể vãng sanh Tịnh độ hay không mà gây ra tranh luận. Do đó mà có nhiều nghị luận sôi nổi.

Tiết thứ nhất

Thuyết của ngài Pháp Nhiên

Tuy ngài Pháp Nhiên cho rằng các thiện hạnh khác không phải chính hạnh bản nguyện, nhưng vẫn cho là trợ hạnh vãng sanh. Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập nói: “Tu tập tạp hạnh thì cần phải đem hồi hướng để trở thành nhân vãng sanh. Cho dù không có các thiện hạnh khác, hoặc một, hoặc nhiều, tùy theo khả năng tu tập mười ba pháp quán đều được vãng sanh; đây chính là ý của kinh có thể dùng để chứng minh, không có gì phải nghi ngờ”.

Lại trong Vô Lượng Thọ kinh thích giải thích văn tam bối nói: “Theo ý của ngài Thiện Đạo thì văn này có ba ý: chỉ niệm Phật vãng sanh, trợ niệm Phật vãng sanh, các hạnh vãng sanh”. Chúng ta có thể biết ngài Thiện Đạo cũng khẳng định các thiện hạnh khác cũng được vãng sanh.

 

Tiết thứ hai

Thuyết biên địa vãng sanh của ngài Long Khoan

Ngài Long Khoan ở chùa Trường Lạc lấy bản nguyện niệm Phật làm sanh nhân báo độ, các thiện hạnh khác chẳng phải sanh nhân báo độ, nhưng có thể sanh về biên địa. Ba tâm đủ, hoặc không đủ, nương theo tha lực, hoặc không nương theo tha lực mà xác định cõi vãng sanh khác nhau. Cực Lạc Tịnh độ tông nghĩa quyển trung của ngài trứ tác nói: “Căn cơ vãng sanh bao gồm có hai loại là căn cơ vãng sanh về báo độcăn cơ vãng sanh về biên địa. Căn cơ vãng sanh về báo độ tức là căn cơ thuộc bản nguyện vãng sanh; điều này lại có ba loại căn cơ khác nhau:

1. Căn cơ thuộc nguyện thứ mười tám: Chính là căn cơ bản nguyện vãng sanh, từ đầu đã đầy đủ ba tâm, nương theo tha lực chân thật bản nguyện niệm Phật.

2. Căn cơ thuộc nguyện thứ mười chín: Vốn đã phát tâm bồ-đề tu các công đức; sau đó xả bỏ hạnh khác, đem công đức quy về tha lực chuyên tu niệm Phật, hoặc đã từng tu các thiện hạnh khác.

3. Căn cơ thuộc nguyện thứ hai mươi: Vốn lấy niệm Phật và tu cả các hạnh khác mà tín tâm không quyết định, nhưng sau đó gặp duyên phát ba tâm, kết quả được vãng sanh.

Trên đây, tuy có ba loại căn cơ vãng sanh, nhưng các căn cơ này đều sanh về báo độ do bản nguyện mà thành.

Căn cơ vãng sanh về biên địa, Quán kinh nói người chín phẩm, tức chỉ người đới hoặc vãng sanh. Trong Đại kinh nói: “Người nghi ngờ không tin nên sanh về biên địa của cõi Cực Lạc”. Lược luận nói: “Tuy vãng sanh về cõi An Lạc, nhưng không được vào hàng tam bối. Vì đem tâm nghi ngờ tu các công đức nguyện sanh về cõi An Lạc thì sanh vào cung điện bảy báu. Vì không tin bản nguyện, danh hiệu, không nương theo tha lực, cho nên sanh vào biên địa”. Vì ba tâm này đều lấy sự nương về tha lực chân thật của Như Lai làm tâm, người phát tâm này đều sanh về báo độ. Kẻ mê không hiểu trí tuệ của Đức Phật, nghi ngờ bản nguyện, không nương theo tha lực, tu hạnh tự lực thì sanh về biên địa.

Lại nữa, ngài Long Khoan chủ trương báo độ do bản nguyện mà thành không có sai biệt về phẩm loại mà chỉ có sai biệt biên địa có chín phẩm. Cùng với biên địa thai sanh trong kinh Vô Lượng Thọ và chín phẩm vãng sanh trong Quán kinh là cùng một quan điểm, gọi là chín phẩm biên địa. Nhưng trong Cực Lạc Tịnh độ tông nghĩa quyển hạ nói: “Bên ngoài báo độ thật sự không có biên địa, cõi Cực Lạc chỉ có báo độ là nơi báo thân Phật cư trú do bản nguyện mà thành. Nhưng vì căn tính chúng sanh, ham muốn khác nhau, người chưa phát ba tâm rất đông, Đức Phật vì lợi ích cho họ mà dùng các phương tiện mở bày biên địa thai sanh. Hoặc nói nghinh đón về chín phẩm, lấy đó làm giáo môn phương tiện tùy nghi, tùy duyên nói cho chúng sanh”.

Pháp Nhiên thượng nhân truyện kí bản khắc vào niên hiệu Đề Hồ nói: “Chỉ có người niệm Phật sanh về nước Cực Lạc, còn người tu hạnh khác thì sanh về nước Giải Mạn. Người vừa tu niệm Phật, vừa tu pháp thiện khác cũng có hai loại: một, tâm chú trọng vào niệm Phật và tu tạp hạnh khác thì làm trợ duyên thì sanh về Cực Lạc; hai, tâm chú trọng các tạp hạnh khác, lấy niệm Phật làm trợ duyên thì sanh về nước Giải Mạn”.

Hòa ngữ đăng lục quyển 5 dẫn trong tập Vấn đáp niệm Phật nói: “Lấy bản nguyện niệm Phật làm trợ hạnh, nếu người tu trợ hạnh này thì sanh về biên địa Cực Lạc”. Tương truyền ngài Pháp Nhiên cũng cho rằng người tu hạnh khác; hoặc người vừa niệm Phật vừa tu pháp thiện khác đều vãng sanh về biên địa nước Giải Mạn.

Liên quan đến vấn đề chín phẩm Cực Lạc có hay không, trong bản khắc vào niên hiệu Đề Hồ cho rằng chín phẩm Cực Lạc chẳng phải bản nguyện của Phật Di-đà, lại nói trong bốn mươi tám nguyện cũng là cách nói thiện xảo của Thích Tôn. Nếu nói người thiện, người ác đều vãng sanh về một chỗ thì người làm ác khởi tâm ngã mạn; cho nên sắp xếp phẩm vị sai biệt. Giải thích người thiện được sanh lên thượng phẩm, người ác bị xuống hạ phẩm; cho nên ngài Long Khoan đề xướng thuyết không có tam bối, chín phẩm. Do đây có thể thấy chủ trương của ngài Long Khoan chịu ảnh hưởng ngài Pháp Nhiên. Nhưng trong bản khắc vào niên hiệu Đề Hồ cũng ghi chép lời giống như ngài Long Khoan, sách này có lẽ là do một phái của chùa Trường Lạc truyền, khẳng định không giống với thuyết của ngài Pháp Nhiên.

 

Tiết thứ ba

Nghĩa hai loại đều vãng sanh của hai ngài Thánh QuangLương Trung

Ngài Thánh Quang ở Trấn Tây cho rằng chuyên tu niệm Phật và các thiện hạnh khác đều sanh về báo độ; đồng thời, trong báo độ có chín phẩm sai biệt. Ngài đã trứ tác Tịnh độ tông yếu tập quyển 2, cho rằng Cực Lạc là cõi do bản nguyện của Di-đà mà thành cũng là cõi định vô lậu thanh tịnh, vì nhân Ngài đã tu là định vô lậu, định thiện, tán thiện cho nên Cực Lạc là nơi vãng sanh của tất cả chúng sanh.

Tịnh độ tông yếu tập quyển 3 của ngài Lương Trung bàn rộng vấn đề các hạnh vãng sanh. Trong tam kinh nhất luận[1], ngũ bộ cửu quyển[2] đã nói về các hạnh vãng sanh rất nhiều; lại nói bản chất của các thiện phápchân không diệu hữu; do đó, bậc thượng căn tu pháp này tức thành quả Phật. Vả lại, vãng sanh Tịnh độthể đạt được lí thể chân thật.

Lại nữa, Tuyển trạch hoằng quyết nghi sao quyển 2 của ngài nói: “Căn cơ tạp hạnh vì đủ ba tâm như Chí thành tâm v.v…nên được sanh về báo độ. Ba tâm là nhân vãng sanh”. Giải thích niệm Phật, các hạnh có nghĩa là an tâm, cho nên luận chứng căn cơ có đủ các hạnh thì được vãng sanh.

Bởi vì, ngài Lương Trung lấy nguyện thứ mười tám làm nguyện sanh nhân niệm Phật, nguyện thứ mười chín làm nguyện đến tiếp đón, nguyện thứ hai mươi gọi là nguyện quả toại. Các tạp thiện hạnh tuy chẳng phải hạnh bản nguyện, nhưng căn cơ các hạnh không dựa vào tha lực, chỉ do tu thiện thì không thể vãng sanh về báo độ. Đây là lí do ngài Lương Trung cho rằng các thiện hạnh chẳng phải hạnh bản nguyện. Căn cơ này là nương theo nguyện nhiếp cănthành tựu tịnh nghiệp để được vãng sanh; cho nên đề xướng thuyết ‘nguyện lực nhiếp căn cơ’.

Tuyển trạch truyền hoằng quyết nghi sao quyển 2 nói: “Căn cơ vãng sanh Tịnh độ có ba loại: một, căn cơ đoạn chứng, tự tịnh tâm mình, có thể vãng sanh Tịnh độ; hai, căn cơ các hạnh, nương theo nguyện của Phật A-di-đà thu nhiếp mọi căn cơ, tịnh nghiệp thành tựu thì được vãng sanh; ba, căn cơ niệm Phật, nương nguyện sanh nhân của Phật A-di-đà, tịnh nghiệp thành tựu thì được vãng sanh”. Trong đó, căn cơ đoạn chứng, lấy tự chứng diệu lí hai không, cảm ứng chân trí biến thành Tịnh độ, cho nên không nhờ thắng duyên bản nguyện của Phật A-di-đà. Căn cơ các hạnh, tiến thì chưa đoạn hai chấp nhân và pháp, thoái thì chưa đủ bản nguyệnsanh nhân, nhưng vì được Phật nhiếp thụ nguyện của tất cả phàm phu liền được vãng sanh. Cơ duyên người niệm Phật rất ít, hoặc chưa nương theo bản nguyện sanh nhân, hạnh nghiệp nên vãng sanh khó thành tựu; cho nên phải nhờ niệm Phật mới được vãng sanh, tức chỉ thuyết này. Nhiếp nguyện của phàm phu là lấy thành quả hạnh nghiệp của phàm phu, nhờ nguyện lực được vãng sanh, tức là Quán kinh đã nói nguyện lực đời trước của Như Lai.

Quần nghi luận của ngài Lương Trung, nói: “Người của năm thừa trước Sơ địa nhờ sức bản nguyện mà được vãng sanh báo độ”. Trong đó, lấy Phật A-di-đà làm Tha thụ dụng thân, chẳng phải người Địa tiền có thể nhìn thấy. Quán kinh nói phải nhớ đến nguyện lực đời trước của Phật A-di-đà thì mới được thành tựu, nương theo nguyện lực đời trước mà thấy được Thụ dụng thân. Văn trình bày điều này cũng nương theo nguyện lực đời trước được sanh về Thụ dụng độ. Trong kinh dường như chỉ hạn định tu quán thành tựu thuộc về định thiện, giải thích rộng để chứng minh năm thừa vãng sanh; do đó, nguyện lực đời trước là nhiếp căn cơ của năm thừa; đây chỉ cho nguyện nhiếp căn cơ.

Căn cơ các hạnh là do được nguyện này nhiếp thụthành tựu nghiệp vãng sanh; cho nên nói liền được vãng sanh. Các hạnh tức là các hạnh tu hành, vốn có cái dụng của diệu hữu chân thiện, nên có thể trở thành nhân vãng sanh Tịnh độ. Nói theo người có thể tu, do có nguyện năng nhiếp căn cơ và nghĩa của sở nhiếp căn cơ, cho nên chẳng phải hạnh của bản nguyện cũng có thể vãng sanh.

 

Tiết thứ tư

Nghĩa một loại vãng sanh của ngài Chứng Không

Ngài Chứng Không là tổ phái Tây Sơn cho rằng hai hạnh tự lực định thiệntán thiện chẳng phải nhân vãng sanh báo độ; hạnh sanh nhân hạn cuộc ở một hạnh hoằng nguyện niệm Phật, ngài chủ trương nghĩa một loại vãng sanh; đồng thời, báo độ do bản nguyện mà thành, tuy là giống nhau và không có phẩm loại sai biệt, nhưng thuyết chín phẩm chỉ cho người uế độ tu hành; cho nên sắp xếp căn cơ, phẩm loạisai biệt. Ngài trứ tác Quán kinh tán thiện nghĩa tha bút sao quyển thượng nói: “Tâm chân thật là bỏ tâm tự lực, quy về tha lực. Phát tâm tu hạnh này là hạnh chân thật. Không chân thật là đem tâm tự lực muốn ra khỏi uế độ. Dùng tâm này tu hạnh tự lực thì khó thành tựu hạnh vãng sanh; cho nên nói hạnh không chân thật, vì có nghi ngờ nên bị chê là tạp độc thiện”. Lại nữa, Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập bí sao quyển 1 của ngài Hành Quán nói: “Trong hạnh vãng sanh, kiến lập các hạnh bản nguyện và các hạnh vãng sanh”.

Trong ba bộ kinh Tịnh độ nói đến các hạnh và niệm Phật về căn cơ thì chia ra hai căn cơ và hai loại tức là các hạnh và niệm Phật đều kiến lập vãng sanh khác nhau. Đệ tử của phái Tây Sơn lấy ba bộ kinh xếp đặt các hạnh và niệm Phật làm một loại vãng sanh, không nói là hai loại vãng sanh. Lấy hạnh tự lực làm hạnh tạp độc, cuối cùng không thể vãng sanh về báo độ do bản nguyện hình thành, tất cả các căn cơ thiện ác vãng sanh đều quy về một hạnh hoằng nguyện niệm Phật mới có thể được vãng sanh; cho nên không thể không nói nhiều căn cơ là một loại vãng sanh. Đệ tử của phái Tây Sơn lấy điều này để phản kích lại thuyết của hai ngài Thánh QuangTrường Tây đều cho rằng hai loại như các hạnh và niệm Phật đều được vãng sanh.

Bởi vì, ngài Chứng Không lấy phát ba tâm quy nạp vào trong tâm tha lực, bỏ căn cơ chấp vào tự lực không quy về bản nguyện tha lực, nên không được vãng sanh về báo độ, ý này phủ nhận các hạnh tự lực được vãng sanh. Nhưng lấy phát ba tâm quy về công đức Phật lực hoằng nguyện, nếu trừ bỏ được tình chấp tự lực thì hai hạnh định thiệntán thiện của ngài phục hồi công đức niệm Phật ở bên trong bản nguyện, cho rằng điều này thành nghiệp vãng sanh.

Tán thiện nghĩa tha bút sao quyển hạ nói: “Chính nhân là quy về tâm hoằng nguyện, cho nên không gọi là tạp độc”. Nhưng hai hạnh định thiệntán thiện này chẳng phải theo tình chấp của căn cơbàn luận, nhưng vì có đủ nghiệp phiền não nên gọi là tạp độc. Do đó, nếu nhập vị chính nhân thì tu hành bất cứ pháp môn nào cũng đều được thành tựu. Lấy vị chính nhân đã tu làm hạnh thanh tịnh. Hạnh thanh tịnh tức là niệm danh hiệu Phật; đây là tâm hiểu rõ, vì tâm hiểu rõ nên không có nghĩa tạp độc. Nghĩa là hai hạnh định thiệntán thiện là hạn cuộc vào tình chấp tự lực nên gọi là hạnh tạp độc, chỉ cần hoằng nguyện quy về vị chính nhân, lấy những hạnh này làm tịnh hạnh; cho nên nói là thanh tịnh.

Tuyển trạch tập bí sao quyển 2 nói: “Nghĩa một niệm, nghĩa nhiều niệm, có bốn phân phái đều chú trọng đến quan điểm phế và lập”. Cho nên yếu môn bàng và chính là kiến giải của phái Tây Sơn.

Bởi thế, Sự lược tụng của pháp sư Sơn nói: “Lão sư Pháp Nhiên thì chủ trương đoạn dứt các hạnh, đệ tử Thiện Tuệ thì chủ trương chọn lấy các hạnh. Phế, lập là lấy việc xả bỏ các bàng hạnh định thiện, tán thiện làm pháp môn cuả vị chính nhân. Yếu môn là theo căn cơ của mọi người mà nói họ quay về quang minh của Phật Di-đà, lấy nhiếp nhiều căn cơ định thiện, tán thiện làm pháp môn của vị chính nhân, sơn tăng tôi cũng nói như thế”

Phương châm phế lập là của ngài Pháp Nhiên, bởi vì phế bỏ hai hạnh định thiệntán thiện, cho nên nói đoạn trừ các hạnh. Nhưng theo lập trường của ngài Chứng Không lấy bàng và chính làm yếu môn, bổ sung các tạp hạnh; sau đó làm trợ nghiệp vãng sanh, làm cho các hạnh này hồi phục.

Tóm lại, tông nghĩa của ngài Chứng Không đã lập, phần nhiều là theo tông nghĩa của tông Thiên Thai, cho rằng hạnh môn tự lực tu hành thì không thể nào vãng sanh cùng một ý nghĩa với chủ trương của tông Thiên Thaiquyền giáo trở về trước thì không thể thành Phật. Lấy vạn loại làm một loại cùng vãng sanh, nếu quy về hoằng nguyện thì hai hạnh định thiệntán thiện cũng đều thành hạnh thanh tịnh, trở thành hạnh vãng sanh.

Kinh Pháp hoa nói: “Chỉ có một Phật thừa, không hai cũng không ba”. Kinh này còn nói: “Những việc các ông làm là đạo Bồ-tát”, có đồng một bút pháp với lấy căn cơ trước quyền giáo thành Phật nhiếp thụ làm phương tiện.

Tiết thứ năm

Nghĩa các hạnh bản nguyện của ngài Trường Tây

Ngài Trường Tây ở chùa Cửu Phẩm đề xướng nghĩa các hạnh bản nguyện, chẳng những niệm Phậtsanh nhân bản nguyện mà các hạnh cũng có trong thệ hạnh, cho nên hai pháp niệm Phật và các hạnh đều có thể vãng sanh về báo độ. Ngài trứ tác Niệm Phật bản nguyện nghĩa nói nghĩa niệm Phật thì hơn, các hạnh thì kém, chỗ nào cũng nói như thế. Niệm Phật thù thắng, nếu chẳng phải nhờ nguyện lực thì không được vãng sanh; huống gì các hạnh thấp kém, chỉ có tự lực làm sao được vãng sanh? Vì thế, lấy nguyện thứ hai mươi làm bản nguyện các hạnh vãng sanh.

Trong Chư hạnh bản nguyện nghĩa của ngài Niệm Không, đệ tử của ngài, nói kiến lập các hạnh bản nguyện có ba nghĩa:

1. Y lí: Lòng đại bi của chư Phật làm lợi ích cho chúng sanhUế độ, chẳng thể dùng một pháp mà có thể phù hợp tất cả căn cơ của chúng sanh, nên phải nói các hạnh là để thích hợp với nhiều căn cơ. Tì-kheo Pháp Tạng bị sự thúc giục của tâm từ bi, bình đẳngkiến lập hoằng nguyện rộng lớn, nếu chỉ giới hạn một hạnh xưng danh làm bản nguyện mà không lập các hạnh thì lòng từ bi của Ngài lại hẹp hòi, đức đại bi không rộng khắp, không thể được gọi là hoằng nguyện sâu rộng.

2. Y nghĩa: Nguyện thứ mười tám là xưng danh niệm Phật, nguyện thứ mười chín là đến tiếp dẫn, nguyện thứ hai là mươi các hạnh vãng sanh. Các nhà lấy nguyện thứ hai mươi làm nguyện xưng danh quyết định vãng sanh, hoặc vốn là người tạp hạnh nguyện hồi hướng xưng danh niệm Phật, hoặc là thuận theo đời sau nguyện vãng sanh đều là thuyết không thỏa đáng. Bởi vì nguyện văn nói rõ có nghĩ nhớ về cõi nước Ta, trồng các đức hạnh; cho nên có ý nghĩa của các hạnh thì nguyện này tức là thệ hạnh của các hạnh vãng sanh.

3. Y văn: Đại kinh nói: “Nghĩ nhớ về cõi nước Ta, trồng các thiện căn, chí tâm hồi hướng, muốn sanh về nước Ta, nếu không được toại nguyện thì Ta thề không thành Chính giác”. Nguyện này lấy pháp môn quán niệm làm tăng thượng duyên nhiếp hóa chúng sanh. Lại nữa, trong Quán kinh nói vì nguyện lực đời trước của Phật A-di-đà, nên ức tưởng thì nhất định được thành tựu. Bát chu tán nói: “Hoặc tưởng, hoặc quán có thể trừ tội chướng, đều là bản nguyện lực của Di-đà”. Những điều này đều là xác minh các hạnh bản nguyện. Vả lại, nguyện văn trong Đại kinh nói: “Nếu không được toại nguyện” là đồng nghĩa với “nếu không vãng sanh”, tức là ý nghĩa thuận thứ vãng sanh. Nguyện văn kinh Bảo tích luận chứng rằng “Nếu không vãng sanh thì Ta không thành Chính Giác”. Từ đó, chúng ta hiểu rõ yếu chỉ về nghĩa các hạnh bản nguyện của ngài Trường Tây.

Lại nữa, trong Tuyển trạch tập của ngài Trường Tây chỉ lấy thuyết niệm Phật làm bản nguyện vãng sanh còn các hạnh khác chẳng phải bản nguyện vãng sanh do Phật A-di-đà nói, cho nên bị phản bác. Bởi vì, trong bốn mươi tám nguyện hoàn toàn không nói bản nguyện các hạnh vãng sanh, chỉ có trong nguyện thứ mười tám nói hạnh khác như quán Phật v.v…chẳng phải là sanh nhân; nguyện này nói một hạnh xưng danh niệm Phậtsanh nhân trong thệ nguyện. Các nhà lấy nguyện văn do người Nhật Bản viết để giải thích nguyện văn mười niệm; hoặc chỉ mười niệm tâm như từ bi, hộ pháp v.v…lấy những điều hiểu sai làm ý nghĩa chân thật, rồi đem ra so sánh biện bạch thì thật là gian khổ.

Tiết thứ sáu

Nghĩa các hạnh bản nguyện của ngài Giác Du

Nghĩa các hạnh bản nguyện không chỉ riêng ngài Trường Tây chủ trương mà còn có các ngài như Trụ Tâm Phòng Giác DuVân Lộ, Chân Không ở Mộc Phiên, Lương Biến ở Sinh Câu, Ngộ A ở viện Tri Túc, Từ Tâm Phòng Trừng Hải, Chân A ở chùa Tịnh Quang Minh, Ngưng Nhiên ở chùa Đông Đại v.v…đều đề xướng nghĩa này, thịnh hành một thời ở hai kinh đô nam và bắc. Trong đó, ngài Giác Du lấy nguyện thứ mười tám làm niệm Phật vãng sanh, nguyện thứ mười chín làm các hạnh vãng sanh, nguyện thứ hai mươi làm nguyện thuận theo đời sau vãng sanh; cho nên bất đồng với chủ trương của ngài Trường Tây.

Ngài Trường Tây vốn thụ giáo với ngài Giác Du, có thể thấy thuyết của người trước bị người sau phê phán. Ngài Lương Biến lấy nguyện thứ mười tám làm chính nhân niệm Phật chân chính, nguyện thứ mười chín là đến tiếp dẫn, nguyện thứ hai mươi là chắc chắn được toại nguyện. Nguyện thứ mười chín là tu các công đức, nguyện thứ hai mươi là trồng các thiện căn, thể hội nguyện này đều nói về các hạnh, trực tiếp chỉ ra các hạnh chính là thệ của sanh nhân đó là nói nguyên nhân đến tiếp dẫn và được toại nguyện, cho nên nêu ra các hạnh này. Trong đó, tuy cũng có nghĩa các hạnh bản nguyện mà các ngài Giác Du, Trường Tây v.v…đã nói nhưng chưa trực tiếp chỉ ra nguyện thứ mười chín và hai mươi lấy các hạnh làm bản nguyện sanh nhân, nhờ các hạnh chiêu cảm mà được thánh chúng đến tiếp dẫn, chỉ nói đến nhờ các hạnh mà hi vọng được toại nguyện thuận thứ vãng sanh; đây là xử lí về việc thể hội bất đồng.

Bởi vì, trong nguyện văn kinh Vô Lượng Thọ chỉ lấy nguyện thứ mười tám có câu: “Nếu không vãng sanh”, xưa nay phần nhiều quyết định lấy nguyện này làm bản nguyện sanh nhân. Nhưng nguyện thứ hai mươi bốn trong kinh Đại A-di-đà có đến bốn nguyện làm bản nguyện sanh nhân, nhưng trong đó có ba nguyện có liên quan tới sanh nhân của người tam bối như văn trên đã nói. Do đó, cho rằng từ nguyện thứ mười tám đến ba nguyện sau trong kinh Vô Lượng Thọchuyển đổi từ nguyện văn của kinh Đại A-di-đà. Y theo thuyết ấy, bản ý của kinh ở trong ba nguyện này chắc chắn đều là sanh nhân trong phát nguyện. Nếu như thế thì nghĩa các hạnh bản nguyện lại phù hợp với bản ý của kinh; đồng thời, cũng phát huy hai loại là niệm Phật và các hạnh, mỗi loại đều là giáo nghĩa của vãng sanh Tịnh độ từ xưa đến nay.

Tiết thứ bảy

Nghĩa các hạnh bản nguyện của ngài Thân Loan

Ngài Thân Loan lấy ba nguyện mười tám, mười chín và hai mươi phối hợp với ba kinh Tịnh độ. Hai hạnh định thiệntán thiện trong Quán kinh là trình bày nguyện thứ mười chín, y cứ vào đây mà có thuyết vãng sanh biên địa Giải Mạn. Vãng sanh theo Quán kinh còn gọi là Song thụ lâm hạ vãng sanh.

Tự lực niệm Phật trong kinh A-di-đà là khai triển nguyện thứ hai mươi, y cứ vào đây mà có thuyết vãng sanh nghi thành thai cung. Vãng sanh theo kinh Di-đà còn gọi là Nan tư vãng sanh. Hoằng nguyện chân thật trong kinh Vô Lượng Thọ tức là nguyện thứ mười tám, quy nạp về đời này, trụ ở địa vị chính định tụ, nhất định vãng sanh về báo độ chân thật.

Vãng sanh theo Đại kinh còn gọi là Nan tư nghị vãng sanh. Hạnh tự lực này y theo hai nguyện mười chín và hai mươi mà vãng sanh về hóa độ. Người có niềm tin tha lực y theo nguyện thứ mười tám là vãng sanh về báo độ, cũng không thể không nói là một loại nghĩa các hạnh bản nguyện.

Trong đó, các hạnh và tự lực niệm Phật là nhân biên địa thai sanh giống với quan điểm của ngài Long Khoan. Nhưng đối với ngài Long Khoan mà nói thì chẳng phải lấy các hạnh này làm bản nguyện.

Nay y cứ theo ngài Thân Loan đã nói về hai nguyện mười chín và hai mươi thì chủ trương của hai ngài có khác nhau. Lại nữa, nguyện thứ mười chín là các hạnh vãng sanh, nguyện hai mươi là tự lực niệm Phật là hợp với ngài Giác Du. Nhưng ngài Long Khoan cho rằng các hạnh được vãng sanh về báo độ. Nay ngài Thân Loan lại lên án là nhân của biên địa, thai sanh thì biết cả hai ngài có chủ trương khác nhau.

Tiết thứ tám

Nguyên nhân dẫn đến bất đồng ý kiến

Vấn đề các hạnh vãng sanh và không vãng sanh như thế vẫn còn tranh cãi chưa rõ ràng, làm cho đệ tử của ngài Pháp Nhiên tranh luận không dứt. Về điều này, bản thân ngài Pháp Nhiên luôn nhấn mạnh ý nghĩa tuyển trạch bản nguyện niệm Phật, nguyên nhânliên quan đến vấn đề phế bỏ các thiện hạnh khác, phần đông mọi người không hiểu. Đồng thời, cho rằng ngài Duệ Sơn cũng phản đối luận nghị chuyên tu niệm Phật này.

Quán kinh huyền nghĩa phần bí sao quyển 1 của ngài Duệ Sơn Hành Quán nói: “Trong đệ tử đồng đạoý kiến bất đồng như thế, ngài Pháp Nhiên không lấy các thiện hạnh khác của Phật A-di-đà làm bản nguyện vãng sanhphán đoán chỉ lấy niệm Phật làm bản nguyện vãng sanh, trong nghĩa nhất hướng chuyên niệm, mỗi người truyền lại khác nhau. Nhưng trong ba kinh Tịnh độ nói vãng sanh có hai hạnh định thiệntán thiện, mọi người không chịu xét kĩ mà giữ ý kiến bất đồng như thế”. Chính là nói việc này.

Lại nữa, trong Đông Đại tự thập vấn đáp nói: “Tạp hạnh bản nguyện là gì? Đáp: Nghi ngờ năm trí của Đức Phật nên bị sanh ở biên địa, có thể được lợi ích thấy Phật, nghe pháp”. Đây là kẻ lừa bịp không có đạo tâm, cho dù pháp sư sơn tự có ca ngợi điều này nhưng họ cũng không hiểu ý nghĩa của Phật, có thể thấy đây là lời nói phiến diện.


 

[1] Tam kinh nhất luận 三經一論: Ba bộ kinh: kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà và một bộ luận Vãng sanh.

[2] Ngũ bộ cửu quyển 五部九卷: Năm bộ sách gồm chín quyển do ngài Thiện Đạo, tổ sư tông Tịnh độ đời Đường, Trung Quốc soạn (xem chương 14).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29883)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27169)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21763)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20422)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24738)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23211)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38117)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19949)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19036)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23142)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22905)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29560)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15844)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18845)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19646)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20147)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19948)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34161)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39229)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18844)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24050)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30941)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20668)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26247)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30022)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20214)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15141)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15825)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23866)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant