Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Chương Thứ Mười

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12057)
10. Chương Thứ Mười
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ


Chương thứ mười

Thuyết báo thân, báo độ của luận Nhiếp Đại Thừaquan điểm Tịnh độ Phật A-di-đà của Thế Thân

Tiết thứ nhất

Thuyết báo độ của luận Nhiếp Đại Thừa

Trong luận Nhiếp Đại thừa của ngài Vô Trước Asaṅga cũng nêu ra thuyết thế giới Liên Hoa Tạng. Như chương trước đã nói, kinh Hoa nghiêm lấy thế giới Liên Hoa Tạng làm trụ xứ của Tì-lô-giá-na Như Lai. Theo quan điểm của Phiếm thần luận thì toàn vũ trụ là tướng của thế giới kia. Nhưng nay luận Nhiếp Đại thừa nói Tịnh độ của chư Phật đều nương vào Đại bảo liên hoa; đồng thời, cõi đó đầy đủ bảy báu trang nghiêm, gọi là đức tướng của mười tám viên tịnh. báo độ này do thế giới Liên Hoa Tạng cấu thành là hình tướng thụ dụng độ của chư Phật; cho nên không giống với kinh Hoa Nghiêm chỉ lấy Tì-lô-giá-na làm trụ xứ thuyết pháp.

Lại nữa, luận này lấy Tịnh độ làm cõi do nhân nơi nguyện mà ứng báo, là cõi Phật thuần tịnh vô lậu vượt qua ba cõi, cho nên không giống với kinh Hoa nghiêm nói thế giới Liên Hoa Tạng bao hàm tất cả cõi Tịnh, Uế; lấy cõi nước tuyệt đối vô hạn làm phương hướng để khảo sát, tức là thuyết thế giới Liên Hoa Tạng, lúc luận này triển khai thì đã thành ra một loại thuyết chung phổ thông hóa.

Thuyết mười tám viên tịnh là do kinh Giải thâm mậtkinh Phật địa ghi lại có thứ tự, tức là nói thụ dụng báo độ là chỗ của Đức Phật trụ đầy đủ mười tám loại công đức trang nghiêm. Luận Nhiếp Đại thừa ghi lại thuyết này đã được nói trong kinh có một trăm bài kệ thuộc bồ-tát tạng duyên khởi. Liên quan đến kinh Bách thiên, trong luận Nhiếp Đại thừa quyển 15 của ngài Thế Thân, có hai cách giải thích:

1. Trong bồ-tát tạng có riêng một loại kinh Tịnh độ, kinh này có một trăm nghìn bài kệ (tức mười vạn bài kệ), cho nên gọi kinh Bách thiên.

2. Trong kinh Hoa nghiêm cũng có một trăm nghìn bài kệ, cho nên gọi là kinh Bách thiên, nói rộng về tướng Tịnh độ.

Trong đó, lại có biệt danh là kinh Tịnh độ, nhưng chưa chỉ rõ là bộ kinh nào. Kinh Giải thâm mật chỉ có 5 quyển, nên không nói có kinh Tịnh độ riêng. Nhưng Giải thâm mật kinh sớ quyển 1 của ngài Viên Trắc nói kinh này có hai bản quảng và lược. Bản quảng có mười vạn bài tụng, y theo bản lược ghi có một nghìn năm trăm bài tụng, đủ thấy là nói bản quảng, gọi là kinh Bách thiên; vả lại, hiện nay trong phẩm tựa này có văn mười tám viên tịnh, có lẽ ở đây chẳng phải chỉ kinh Giải thâm mật mà nói. Lại nữa, người xưa gọi kinh Hoa nghiêm là kinh có mười vạn bài kệ, trong đó có nói thế giới Liên Hoa Tạng, có lẽ chỉ cho kinh Hoa Nghiêm này tên là kinh Bách thiên thì rất thỏa đáng. Vì thế, căn cứ theo hai kinh này có thuyết thế giới Liên Hoa Tạng của luận Nhiếp Đại thừa để nói về sự cấu thành một loại Tịnh độ của chư Phật Như Lai.

 

Tiết thứ hai

Thuyết mười tám viên tịnh

Nay y theo Trí sai biệt thắng tướng trong luận Nhiếp Đại thừa quyển hạ của ngài Chân Đế dịch, nêu ra danh xưng mười tám viên tịnh:

1. Sắc tướng viên tịnh (Hiển sắc viên mãn, theo tân dịch của ngài Huyền Trang, các mục phía dưới cũng vậy).

2. Hình mạo viên tịnh (Hình sắc viên mãn).

3. Lượng viên tịnh (Phần lượng viên mãn).

4. Xứ viên tịnh (Phương sở viên mãn).

5. Nhân viên tịnh (Nhân viên mãn).

6. Quả viên tịnh (Quả viên mãn).

7. Chủ viên tịnh (Chủ viên mãn).

8. Trợ viên tịnh (Phụ dực viên mãn).

9. Quyến thuộc viên tịnh (Quyến thuộc viên mãn).

10. Trì viên tịnh (Trụ trì viên mãn).

11. Nghiệp viên tịnh (Sự nghiệp viên mãn).

12. Lợi ích viên tịnh (Nhiếp ích viên mãn).

13. Vô bố úy viên tịnh (Vô úy viên mãn).

14. Trụ xứ viên tịnh (Trụ xứ viên mãn).

15. Lộ viên tịnh (Lộ viên mãn).

16. Thừa viên tịnh (Thừa viên mãn).

17. Môn viên tịnh (Môn viên mãn).

18. Y chỉ viên tịnh (Y chỉ viên mãn).

 

1. Sắc tướng viên tịnh: Trong luận này giải thích Tịnh độ của Đức Phậtbảy báu trang nghiêm, ánh sáng chiếu cùng khắp vô lượng thế giới. Tức là thọ dụng báo độ của chư Phật dùng bảy báu vàng, bạc v.v...để trang nghiêm. Mỗi thứ báu đều phóng ra ánh sáng chiếu khắp mọi nơi.

2. Hình mạo viên tịnh: Trong luận này nói, vô lượng cảnh giới, trụ xứ đều trang nghiêm vi diệu. Tức là mỗi cảnh giới, mỗi trụ xứ ở Tịnh độ đều đầy đủ các loại báu trang nghiêm, quí hiếm không có gì sánh bằng.

3. Lượng viên tịnh: Trong luận này nói, giới hạn của cõi nước rộng lớn không thể đo lường. Tức là lãnh thổ của Tịnh độ rất rộng lớn, cũng không thể dùng số do-tuần để đo lường được.

4. Xứ viên tịnh: Trong luận này nói, ra khỏi hành xứ của ba cõi. Tức là nói Tịnh độ ra khỏi Tập đế của hành trong ba cõiKhổ đế của xứ trong ba cõi.

5. Nhân viên tịnh: Trong luận này nói, sanh khởi công đức thiện pháp của xuất xuất thế gian. Tức là Tịnh độ không lấy Tập đế trong ba cõi làm nhân, mà từ bát địa trở lên cho đến Phật địacông năng sanh khởi công đức thiện pháp của xuất xuất thế gian. Trong đó, thiện của phàm phu là thiện thế gian, còn thiện của Nhị thừa là thiện xuất thế, từ bát địa trở lên là thiện xuất xuất thế. Do đó nói là Vô phân biệt căn bản tríVô phân biệt hậu đắc trí đã sanh ra thiện căn tức là thiện pháp của xuất xuất thế.

6. Quả viên tịnh: Trong luận này nói lấy tối thanh tịnh tự tại duy thức làm tướng. Tức là Tịnh độ không lấy Khổ đế trong ba cõi làm thể mà lấy thanh tịnh duy thức trí của bồ-tát và Như Lai làm thể. Trong đó, thanh tịnh là nói vô tướng, vô công dụng của duy thức trí kia. Tự tạitrí tuệ của Phật, bồ-tát đã lìa tất cả chướng ngại vĩnh viễn không thoái lui.

7. Chủ viên tịnh: Trong luận này nói, Như Lai ngồi trấn nhậm. Tức là biểu thị Tịnh độ này được Như Lai ngồi trấn nhậm mãi mãi là bậc thượng thủ tối thắng.

8. Trợ viên tịnh: Là chỉ trụ xứ an lạc của bồ-tát. Tức là bồ-tát lấy Tịnh độ làm trụ xứ an lạc, tự mình thực hành chính pháp, cũng đem chính pháp cảm hóa người khác; đây gọi là trợ giúp Phật, trợ giúp đạo.

9. Quyến thuộc viên tịnh: Trong luận này nói, có vô lượng trời, rồng, dạ-xoa, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người, phi nhân v.v...Tức là quyến thuộc của Như Lai trong Tịnh độ, biểu thị tám bộ chúng này thường ở cõi đó. Nhưng tám bộ chúng này chẳng phải là chúng sanh thật, vì trong cõi nước kia không có, chẳng qua là do Đức Phật đặc biệt biến hóa ra.

10. Trì viên tịnh: Nói giữ được pháp vị hỉ lạc. Tức là nói các vị bồ-tát nhờ pháp vị chân như giải thoát của mười hai bộ kinh Đại thừa nên sanh hỉ lạc, nuôi dưỡng ngũ phần pháp thân[1].

11. Nghiệp viên tịnh: Trong luận này nói, lấy việc làm lợi ích cho tất cả chúng sanh làm dụng. Tức là bồ-tát theo khả năng của mình mà thuyết chính pháp cho phàm phunhị thừa để cho họ tu hành đúng lời Phật dạy, xa lìa bốn đường ác, xa lìa sanh tử, xa lìa hạnh tự độ của nhị thừa.

12. Lợi ích viên tịnh: Nói xa lìa tất cả phiền não, tai nạn. Tức là nghiệp dụng của bồ-tát xa lìa tất cả phiền não Tập đế trong ba cõi và tất cả tai họa Khổ đế trong ba cõi.

13. Vô bố úy viên tịnh: Chẳng phải hành xứ của tất cả ma. Tức là trong Tịnh độ không có ấm ma, phiền não ma, tử ma, thiên ma v.v...cho nên xa lìa tất cả sự sợ hãi.

14. Trụ xứ viên tịnh: Trong luận này nói, trụ xứ của Như Lai đều trang nghiêm thù thắng. Tức là chẳng những tất cả đồ dùng thụ dụng tối thắng không gì sánh bằng, mà đây đều là do nhân hạnh viên mãn phúc đức, trí tuệ của Như Lai chiêu cảm, là trụ xứ của báo thân thù thắng của Như Lai, hiển thị trụ xứ tối thắng trong tất cả trụ xứ.

15. Lộ viên tịnh: Trong luận này nói niệm, tư, hành xuất li, tức là nhập môn Tịnh độ. Ba loại tuệ là văn tuệ (niệm), tư tuệ (tư), tu tuệ (hành) trong pháp Đại thừa, ba tuệ này là con đường qua lại Tịnh độ; cho nên gọi là xuất li.

16. Thừa viên tịnh: Thừa là chỉ cho xa-ma-tha và tì-bát-xá-na. Trong pháp Đại thừa, xa-ma-tha (Śamatha) tức là chỉ. Tì-bát-xá-na (Vipaśyanā) tức là quán, lấy hai pháp này để tu hành. Trong đó, xa-ma-tha có năm trăm loại định, tì-bát-xá-na là như lí như lượng trí; hai pháp này là gọi quán hạnh của Du-già.

17. Môn viên tịnh: Nói đến ba giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện. Trong pháp Đại thừa, từ ba giải thoát môn này mà vào Tịnh độ. Từ pháp viên tịnh thứ 15 trở xuống lập ba loại thí dụ, tức là ba tuệ văn, tư, tu làm con đường lưu thông. Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na là xe chuyên chở, xe này đi vào ba cửa giải thoát.

18. Y chỉ viên tịnh: Trong luận này nói, tập hợp vô lượng công đức, trang nghiêm Đại liên hoa vương làm y chỉ. Tức là nói Tịnh độy chỉ vào Đại liên hoa vương mà kiến lập thế giới Liên Hoa Tạng. (Đại Chính, 31, 131, hạ).

Ý nghĩa chủ yếu của mười tám viên tịnh là nói Tịnh độ của chư Phật lấy Đại liên hoa vương làm thành. Do Tịnh độ này có công năng sanh ra thiện pháp xuất xuất thế, vượt khỏi hai đế khổ, tập hữu lậu trong ba cõi, nói lấy duy thức trí thanh tịnh tự tại của Phật, bồ-tát làm thể. Cõi nước này rộng lớn không có giới hạn, vô lượng ánh sáng chiếu rực rỡ, trang hoàng rất trang nghiêm. Phật là bậc thượng thủ, thường trấn nhậm nước đó, có bồ-tát theo hầu thường trợ giúp Phật giáo hóa.

Đức Phật hóa ra tám bộ chúng, trời, rồng v.v...làm quyến thuộc đầy khắp trong nước, họ thường ăn pháp vị để duy trì pháp thân tuệ mạng, không sợ bốn ma, sáu căn thụ dụng đầy đủ tất cả đồ dùng hàng ngày, hiển thị cõi nước này là trụ xứ thù thắng nhất trong tất cả trụ xứ. Nhưng phát triển đến Tịnh độ này thì lấy ba tuệ văn, tư, tu làm con đường lưu thông. Xa-ma-tha, Tì-bát-xá-na là xe chuyên chở đi vào cửa ba giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Trong đó, Chủ viên tịnh tức là Phật trang nghiêm. Trợ viên tịnh, Nghiệp viên tịnh, Lợi ích viên tịnh là bồ-tát trang nghiêm. Sắc tướng viên tịnh trở xuống mười một loại là cõi nước trang nghiêm. Lại nữa, ba loại Lộ viên tịnh, Thừa viên tịnh và Môn viên tịnh là nêu ra pháp chung vào Tịnh độ. Loại luận thuyết này, có thể gọi là một loại luận điểm về Tịnh độ có tổ chức.

 

Tiết thứ ba

Tịnh độ quan của ngài Thế Thân

Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá nguyện sanh kệ của ngài Thế Thân căn cứ là theo thuyết của kinh Vô Lượng Thọ, ca ngợi công đức trang nghiêm của Tịnh độ Di-đà, biểu đạt ý nguyện của mình muốn cầu vãng sanh, là sách luận về Tịnh độ duy nhấtẤn Độ.

Luận này đặt ra năm niệm môn là Lễ bái, Tán thán, Tác nguyện, Quán sátHồi hướng làm nhân của hạnh vãng sanh Tịnh độ. Nhân của hạnh này có thể thu hoạch được năm môn công đức là Cận môn, Đại hội chúng môn, Trạch môn, Ốc môn và Viên lâm du hí địa môn. Trong môn Quán sát thì đối tượng quán sát tức là công đức trang nghiêm của Tịnh độ Di-đà, phân biệt thành ba đại loại: cõi nước trang nghiêm có mười bảy loại, Phật trang nghiêm có tám loại, bồ-tát trang nghiêm có bốn loại. Nay kiểm thảo thuyết này, có lẽ luận này đặt cơ sở trên thuyết mười tám viên tịnh của luận Nhiếp Đại thừa. Trước tiên, luận này ghi cõi nước trang nghiêm có mười bảy loại. Trong kệ nói về công đức của hình tướng:

Tịnh quang minh đầy đủ

Như kính, nhật, nguyệt luân.

Trong kệ nói về công đức của diệu sắc:

Vô Cấu Quang rực rỡ.

Chiếu sáng khắp thế gian.

Kệ này nói liên quan về công đức quang minh của Tịnh độ Di-đà, tương đương với Sắc tướng viên tịnh thứ nhất trong mười tám viên tịnh.

Trong kệ nói về công đức của các thứ sự vật:

Đủ các tính trân bảo

Đầy đủ diệu trang nghiêm.

Lại nữa, ý nghĩa trong kệ công đức của xúc, ba thứ công đứccông đức của mưa hoa đều là nói các thứ trang nghiêm vi diệuTịnh độ. Kệ này tương đương với Hình mạo viên tịnh thứ hai, trong mười tám viên tịnh.

Trong kệ nói về công đức của lượng:

Cứu cánh như hư không

Rộng lớn không giới hạn.

Kệ này nói cương giới của Tịnh độ rất rộng lớn, tức là Lượng viên tịnh thứ ba trong mười tám viên tịnh.

Trong kệ nói về công đức của thanh tịnh:

Quán tướng thế giới kia

Vượt hơn cả ba cõi.

Kệ nói Tịnh độ ra khỏi hai đế khổ, tập của ba cõi, tương đương với Xứ viên tịnh thứ tư trong mười tám viên tịnh.

Trong kệ nói về công đức của tính:

Chính đạo đại từ bi

Sinh thiện căn xuất thế.

Kệ này giải thích chính đạo của Tịnh độ tức là vô phân biệt trí, đại từ bi tức là hậu đắc trí đã sanh ra thiện căn xuất thế (luận Nhiếp Đại thừa gọi là thiện căn xuất thế), tương đương với Nhân viên tịnh thứ năm.

Trong kệ nói về công đức của quang minh:

Trí tuệ Phật chiếu sáng

Trừ tăm tối thế gian.

Trong kệ nói về công đức của diệu thanh:

Tiếng Phạn ngộ sâu sắc

Vi diệu khắp mười phương.

Lại nữa, trong kệ nói về công đức của chủ:

Chính giác A-di-đà

Pháp vương khéo trụ trì.

Các câu kệ này đều tán thán công đức của pháp vương A-di-đà, tương đương với Chủ viên tịnh thứ bảy. Lại nói pháp vương khéo trụ trìhiển thị Tịnh độ lấy Như Lai làm chủ thể trụ trì. Trong đó, cũng có bao hàm ý nghĩa Quả viên tịnh thứ sáu.

Trong kệ nói về công đức của quyến thuộc:

Chúng thanh tịnh của Phật

Sanh từ hoa Chính Giác.

Kệ này nói tám bộ chúng quyến thuộc của Như Lai đều do Phật hóa ra, tương đương với Quyến thuộc viên tịnh thứ chín.

Trong kệ nói về công đức của thọ dụng:

Ưa thích vị Phật pháp

Tam-muội làm thức ăn.

Kệ này nói lấy pháp vị làm thức ăn, nuôi dưỡng pháp thân, huệ mạng, tương đương với Trì viên tịnh thứ mười.

Trong kệ nói về công đức không có các nạn:

Thân, tâm lìa phiền não

Luôn luôn được an lạc.

Kệ này nói thân, tâm của chúng sanhTịnh độ không có khổ đau, xa lìa tất cả phiền não, tai họa, tương đương với Lợi ích viên tịnh thứ mười hai.

Trong kệ nói về công đức của đại nghĩa môn:

Thiện căn của Đại thừa

Không có người bị chê

Người nữ và thiếu căn

Nhị thừa chủng chẳng sanh.

Kệ này nói Tịnh độ chỉ là thế giới căn cơ của Đại thừa, thuần là nơi bồ-tát cư trú. Nếu người nữ, người thiếu căn, Nhị thừa và những người bị chê bai đều không sanh về cõi này. Điều này trái với ý nghĩa Quả viên tịnh thứ sáu, Trợ viên tịnh thứ tám cho đến nói rộng ra là nghĩa Vô bố úy viên tịnh thứ mười ba.

Trong kệ nói về công đức tất cả sự mong cầu đều được đầy đủ:

Điều chúng sanh ước muốn

Được đầy đủ tất cả.

Kệ này chỉ Tịnh độ Di-đà đầy đủ đồ dùng tốt đẹp nhất khôngsánh bằng cho sáu căn của chúng sanh thụ dụng, nguyện vọng của tất cả chúng sanh đều được đầy đủ, tương đương với Xứ viên tịnh thứ mười bốn.

Kế đến là tám thứ trang nghiêm của Đức Phật, nói về công đức thành tựu tự lợi, lợi tha của Như Lai, tức là giải thích tỉ mỉ Chủ viên tịnh thứ bảy trong mười tám viên tịnh; đồng thời, nói công đức của chủ, công đức của quang minhcông đức của diệu thanh trong cõi nước trang nghiêm cũng đều là tán thán công đức trang nghiêm của Đức Phật. Mười một loại này đều thuộc về trang nghiêm của Đức Phật.

Sau cùng, bốn thứ trang nghiêm của bồ-tát, là nói bồ-tát ở Tịnh độ Di-đà ứng hóa nhiều loại. Các vị bồ-tát tu hành thật sự thường đi khắp thế giới trong mười phương, giáo hóa chúng sanh, diệt trừ khổ nạn cho họ. Lại nữa, bồ-tát trổi âm nhạc, rải hoa, dâng y phục cõi trời cúng dường chư Phật. bồ-tát vào thế giới không có Đức Phật, trụ trì Phật pháp, tức là tương đương với nghĩa Trợ viên tịnh thứ tám, Nghiệp viên tịnh thứ mười một, Lợi ích viên tịnh thứ mười hai trong mười tám viên tịnh. Căn cứ vào lời giải thích trên đây thì Vãng sanh luận nói hai mươi chín loại trang nghiêm, thật ra là nói tỉ mỉ về nghĩa của mười bốn viên tịnh trong mười tám viên tịnh của luận Nhiếp Đại thừa.

Lại nữa, Tác nguyện môn trong năm niệm môn tức là xa-ma-tha; Quán sát môn là tì-bát-xá-na. Luận này lấy hai môn này làm pháp vãng sanh Tịnh độ, không còn nghi ngờkế thừa thuyết viên tịnh thứ mười sáu trong mười tám viên tịnh. Tác nguyện có nghĩa là xa-ma-tha, luận này nói: “Thế nào là tác nguyện? Tâm thường tác nguyệnnhất tâm chuyên niệm, cuối cùng vãng sanh về nước An Lạc” thì biết nghĩa của xa-ma-tha là muốn tu hành đúng pháp xa-ma-tha. Quán sát gọi là tì-bát-xá-na, luận này nói: “Thế nào là quán sát? Dùng trí tuệ quán sát, chính niệm quán sát công đức trang nghiêm của Tịnh độ kia” thì biết tì-bát-xá-na là vì muốn tu hành đúng pháp tì-bát-xá-na. Lại nữa, xa-ma-tha, tì-bát-xá-na là chỗ nương của ba tuệ văn, tư, tu. Vì thế, trong hai môn Tác nguyệnQuán sát, bao hàm nghĩa Lộ viên tịnh thứ mười lăm trong mười tám viên tịnh.

Lại nữa, thực hành theo năm niệm môn của luận này thì thành tựu năm loại công đức, từ cận môn cho đến viên lâm du hí môn, tức là nói nghĩa xuất và nhập của Tịnh độ, tương đương với nghĩa Môn viên tịnh thứ mười bảy trong mười tám viên tịnh. Từ trạch môn thứ ba trở xuống, tu xa-ma-tha, tịch tĩnh tam-muội được nhập thế giới Liên Hoa Tạng, cho nên Tịnh độ Di-đà được gọi là thế giới Liên Hoa Tạng, là tương đương với Y chỉ viên tịnh thứ mười tám. Vì thế, Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá của ngài Thế Thân là căn cứ theo ý nghĩa mười tám viên tịnh của luận Nhiếp Đại thừa, sửa đổi thành một pháp môn trang nghiêm Tịnh độ Di Đàvãng sanh này.

 

Tiết thứ tư

Ý nghĩa chân thật của thế giới Hoa Tạng

Lại nữa, Tịnh độ Di-đà có liên quan đến Y chỉ viên tịnh thứ mười tám, luận Nhiếp Đại thừa ghi:“Được vô lượng công đức tụ trang nghiêmy chỉ Đại liên hoa vương”. Trong luận Phật địa kinh quyển 1 ghi: “Như đất đai nương vào phong luânduy trì; hoặc như cung điện ở thế gian, xây dựng từ mặt đất, Tịnh độ Di-đà vô lượng công đức trang nghiêm được kiến lập bởi Đại bảo liên hoa vương”. Kinh Hoa nghiêm cũng đồng ý nghĩa này, lấy Tịnh độ từ thực chất hoa sen mà cấu thành. Nhưng trong luận Nhiếp Đại thừa quyển 15 của ngài Thế Thân, chỉ ra hai cách giải thích:

1. Dùng hoa senthực chất hoa sen là do cảm ứng nguyện lực của Như Lai hiện thành.

2. Pháp giới chân như của Đại thừa nói dụ như hoa sen, vì hoa sen ở trong bùn lầy, nhưng không bị bùn lầy làm ô nhiễm; giống như pháp giới chân như ở trong thế gian, nhưng không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Lại nữa, hoa sen có bốn đức tính khả ái: hương thơm, tinh khiết, mềm mại, đáng yêu; dụ cho bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của pháp giới chân như.

Hai cách giải thích trên đây, người đời sau cho rằng thế giới Liên Hoa Tạng không phải thực chất hoa sen cấu thành, mà hiển hiện trên thể tính của pháp giới chân như, có lẽ là phát huy ý nghĩa xưa nay của thế giới Hoa Tạng.

Luận Vãng sanh nói cõi nước Phật Vô Lượng Thọ trang nghiêm là tướng cảnh giới vi diệu đệ nhất nghĩa đế. Lại nữa, thành tựu công đức trang nghiêm có ba loại, hai mươi chín câu, nếu lược nói thành nhất pháp cú . Nhất pháp cú còn gọi là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là trí tuệ chân như, pháp thân vô vi. Đây là nói Tịnh độ Di-đà công đức trang nghiêm là tướng cảnh giới vi diệu, đệ nhất nghĩa đế, tức là nói quy về một pháp của trí tuệ chân thật của Như Laipháp thân. Điều này ban đầu trong Trí sai biệt thắng tướng, luận Nhiếp Đại thừa quyển hạ, ghi: “Thụ dụng thân hiển hiện các cõi của chư Phật và nơi các bậc đại nhân tập hợp cư trú”. Thụ dụng thân này lấy pháp thân làm y chỉ. Nói thụ dụng báo thân là nhân của Tịnh độ chư Phật và bồ-tát Đại thừa thụ dụng pháp lạc. Nhưng thụ dụng thân này y chỉpháp thân cũng rất phù hợp với thuyết nhất pháp cú hiện nay. Ngài Thế Thân chủ yếu lấy Tịnh độ làm cụ thể hóa pháp giới chân như. Pháp thân vô vi, trí tuệ chân thật của Như Lai trở thành thể của Tịnh độ. Cho nên, công đức trang nghiêm này chẳng phải tướng hữu vi hư vọng của tục đế thế gian mà phải thấy là cảnh giới đệ nhất nghĩa đế vi diệu. Đây cũng chính là đem Di-đà Tịnh độ quan phát triển đến giai đoạn cảnh giới cao nhất.

------------------------

 [1] Ngũ phần pháp thân五分法身(Cg: Vô lậu ngũ uẩn; S: asamasama-pañca-skandha): Năm thứ công đức đầy đủ trong tự thể của Phật và a-la-hán. Đó là: một, giới thân; hai, định thân; ba, huệ thân; bốn, giải thoát thân; năm, giải thoát tri kiến thân.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29920)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27211)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21813)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22269)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23646)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20470)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20081)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21972)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24791)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19026)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24803)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31015)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24026)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27797)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26567)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21386)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23252)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38192)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18822)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18455)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20014)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19076)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23213)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23920)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22849)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22962)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29624)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20659)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18747)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15875)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18883)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19712)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20199)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19980)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18151)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22989)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34219)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16451)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16952)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39305)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26129)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20137)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18886)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24104)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29185)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22935)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31005)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21048)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26892)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20716)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26295)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23363)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19846)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24708)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30057)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20251)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20438)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15169)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15855)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23936)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant