Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Chương Thứ Mười Bốn

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 13480)
14. Chương Thứ Mười Bốn
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười bốn

Thuyết phàm phuthể nhập báo độan tâm khởi hạnh đầy đủ

Tiết thứ nhất

Thuyết của ngài Thiện Đạo

Ngài Thiện Đạo, đời Đường nhấn mạnh sức bản nguyện của Phật Di-đà, ngài đề xướng thuyết phàm phuthể nhập báo độ. Quán kinh nói pháp môn tha lực cứu vớt phàm phu bị tội ác sanh tử. Trên lịch sử của tông Tịnh độ, ngài khai thác cục diện hoàn toàn mới cho mọi người hiểu. Đặc biệt là ngài Pháp NhiênNhật Bản chuyên theo thuyết của ngài mà đề xướng tông Tịnh độ. Ở Nhật Bản tôn sùng ngài Thiện Đạohoá thân của Di-đà, các tác phẩm của ngài trứ tác về Tịnh độ Di-đà được mọi người trọng vọng, đến nay vẫn còn thịnh hành.

 

Tiết thứ hai

Thuyết phàm phu nhập báo độ

Bởi vì trước ngài Thiện Đạo, hoặc các nhà cùng thời đại với ngài phân loại Tịnh độ, chuyên lấy chỗ cư trú của chúng sanh làm tiêu chuẩn để phân biệt sự hơn kém của quốc độ như đã trình bày ở văn trên. Tức là các nhà nghiên cứu này đều lấy Thọ dụng báo độ làm chỗ cư trú của bồ-tát Địa thượng. Trong đó, lấy Tịnh độ Di-đà làm báo độ, tức là phủ nhận sự vãng sanh của phàm phu Địa tiền, cho rằng phàm phu Địa tiền được vãng sanh Tịnh độBiến hoá độ, hoặc Phàm thánh đồng cư độ, họ đều cho rằng phàm phu vãng sanh báo độ là không thể được.

Nhưng đối với điều này, chỉ có một mình ngài Thiện Đạo đề xướng thuyết phàm phuthể nhập báo độ, tức là lấy báo thân, báo độ làm Tịnh độ Di-đà; đồng thời, ngài chủ trương phàm phu gây tội ác bị sanh tử cũng được vãng sanh báo độ. Quán kinh sớ quyển 1 do ngài trứ tác, dựa theo thuyết của kinh Đại thừa đồng tính chứng minh Tịnh độ Di-đà là Báo thânbáo độ. Trong đó báo độ kì diệu, thật không phải là chỗ của bọn phàm phu cấu uế đầy nghiệp chướng có thể thích hướng về, nhưng do nhờ nhân duyên nguyện lực mạnh mẽ của Đức Phật nhiếp thọ cả năm thừa đều được vãng sanh về báo độ. Do đó, nguyện lực của Đức Phậttăng thượng duyên, cho nên phàm phu cũng có thể nhập báo độ.

Xưa nay, lập trường chung của các nhà chỉ thấy tự lực của chúng sanh, nên cho rằng phàm phu nhập báo độ là không thể được; như thế, bản nguyện của Phật A-di-đà kiến lập trở thành không có ý nghĩa. Phật Di-đà tha thiết kêu gọi mười phương chúng sanh và Ngài lập thệ nguyện nếu có chúng sanh nào không vãng sanh thì Ngài không thành Chính giác, nhưng nay Phật Di-đà đã thành Chính giác, tuy chúng ta vẫn còn là phàm phu, nhưng nếu quy thuận theo Ngài, cầu nguyện vãng sanh thì tất nhiên được ngài tiếp nhận. Nếu không được như thế thì Phật A-di-đà đâu cần kiến lập bản nguyện? Lại đâu cần vì đại đa số phàm phu không thể vãng sanhtrang nghiêm báo độ vi diệu? Những điều này chẳng phải là hoàn toàn thành ra không có chút ý nghĩa. Hoặc có phàm phu dùng sức của chính mình được vãng sanh về Tịnh độ ở cấp độ thấp thì bảo chứng lời Ngài nói: “Nếu chúng sanh nào không được vãng sanh” cũng là không có điều tất yếu này. Bất luận quán sát từ góc độ nào, ý nghĩa Phật Di-đà kiến lập bản nguyện là nói thành lập sự thăng tiến đặc biệt của hàng phàm phu chúng ta. Nếu y cứ vào sự luận bàn của các nhà thì chưa thấy được pháp môn Tịnh độ lấy tha lực cứu giúp làm nghĩa này, cho nên thuyết của các nhà đã nói đều có một ít kiến giải sai lầm.

Bởi vì từ một phái Nhiếp luận, cho đến các ngài Huệ Viễn, Trí Khải đều lấy chỗ dân cư trú làm tiêu chuẩn, phân biệt cõi nước hơn kém là kết quả của sự phát triển từ sự truyền thừa phát triển đối với quan điểm về thân và độ ở Ấn Độ nên đạo lí được nói ra đương nhiên không thể không thừa nhận. Nhưng nếu y theo giáo lí tịnh cõi nước Phật mà nói thì Tịnh độ là cõi do nhân nơi nguyện mà ứng báo, cho dù có khác với Nhiếp luận cho là Thọ dụng độ và nội dung của Thọ dụng độ, tất nhiên cũng có thể gọi là báo độ. Vả lại, phàm phu được vãng sanh báo độ, ở trong các kinh như kinh Đại A-di-đà v.v…đều ghi rõ. Do đó, nay thuyết phàm phu nhập báo độ của ngài Thiện Đạo phải nói là phát huy thật nghĩa của thời đại nguyên thỉ Đại thừa kiến lập Tịnh độ, đúng là kiến giải rất thoả đáng.

 

 

Tiết thứ ba

Luận về khởi hạnh

Ngài Thiện Đạo chủ trương phàm phuthể nhập báo độ, nhưng nhân của hạnh Tịnh độ chủ yếu y cứ vào năm niệm môn của luận Vãng sanh, lại còn chú trọng ba tâm của Quán kinh. Ba tâm này gọi là an tâm, là chính nhân của vãng sanh. Lại lấy an tâm này dạy mọi người qui tắc khởi hạnh tu chân thật, giữ gìn bốn phương pháp tu hành. Ngài Thiện Đạo trứ tác Vãng sanh lễ tán trình bày vãng sanh Tịnh độ phải đầy đủ ba pháp là an tâm, khởi hạnh và tác nghiệp. Trước tiên dẫn chứng trong Quán kinh cần phải đầy đủ ba tâm là chí thành, thâm tâmhồi hướng phát nguyện, gọi là an tâm.

Kế đến, nêu ra năm niệm môn trong luận Vãng sanh lấy ba môn là Thân nghiệp lễ bái, Khẩu nghiệp tán thán, Ý nghiệp ức niệm quán sát, để tu ba nghiệp thân, khẩu, ý. Cuối cùng nêu ra thuyết bốn phương pháp tu hànhCung kính tu, Vô dư tu, Vô gián tu và Trường thời tu; đây là phương pháp sách tấn tu hành ba tâm và năm niệm.

Lại nữa, ngài Thiện Đạo trứ tác Quán kinh sớ quyển 4 ghi: “Tu hành vãng sanh có hai loại sai khác là chính hạnhtạp hạnh, chuyên y theo các kinh luận nói về vãng sanhtu hành gọi là chính hạnh”. Lại nói có năm loại chính hạnh: một, nhất tâm chuyên môn đọc tụng Quán kinh, kinh Di-đà, kinh Vô Lượng Thọ v.vchính hạnh đọc tụng; hai, nhất tâm chuyên chú quán sát, nghĩ nhớ hai báo y, chính trang nghiêm của cõi nước Cực Lạcchính hạnh quán sát; ba, nhất tâm chuyên môn lễ bái Phật A-di-đà là chính hạnh lễ bái; bốn, nhất tâm chuyên môn xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà gọi là chính hạnh xưng danh; năm, nhất tâm chuyên môn tán thán, cúng dường Phật A-di-đà là chính hạnh tán thán cúng dường. Ngoài năm loại chính hạnh này, còn có các thiện gọi là tạp hạnh. Chuyên tu pháp mônliên quan đến Phật A-di-đà là chính hạnh. Xưng niệm Phật, bồ-tát khác gọi là tạp hạnh.

Trong đó, ba loại Lễ bái, Tán thánQuán sát, Vãng sanh lễ tán gọi đó là hạnh của ba nghiệp thân, khẩu, ý, tức là tương đương với ba môn Lễ bái v.v… trong năm niệm môn. Do đó, ngoài năm loại chính hạnh và ba môn (Lễ bái, Tán thán, Quán sát) còn tăng thêm hai môn Đọc tụngXưng danh. Đọc tụng nghĩa là tu đạo thì trước tiên phải thụ trì kinh điển Tịnh độ, cho nên phải đọc tụng. Xưng danhthực hành theo bản nguyện của Phật A-di-đà đã phát nguyệnchính định nghiệp.

Như trên đã thuật, ngài Thiện Đạo giải thích nguyện thứ mười tám trong kinh Vô Lượng Thọ: “Cho đến mười niệm” là nghĩa xưng danh mười tiếng. Vãng sanh lễ tán ngài giải thích nguyện văn này như sau: “Xưng danh hiệu của Ta, thậm chí mười tiếng”. Nay Quán kinh sớ, nói: “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Di-đà, cho đến thuận theo nguyện của Ngài”. Lại phần lưu thông trong Quán kinh sớ nói: “Từ trên đến đây tuy nói về sự lợi ích của hai môn định và tán, nhưng nếu theo ý nghĩa bản nguyện của Đức Phật thì lấy chúng sanh nhất hướng chuyên niệm Phật A-di-đà”. Cho nên lấy xưng danh làm hạnh sanh nhân bản nguyện, đem nó thêm vào một trong năm loại chính hạnh.

Chẳng những như thế, ngài Thiện Đạo lại phân biệt trong năm loại này có trợ nghiệpchính nghiệp. Lấy bốn loại là Lễ bái, Quán sát v.v… làm trợ nghiệp, một hạnh xưng danh gọi là chính định nghiệp. Bốn loại Lễ bái, Quán sát v.v…không thuộc bản nguyện của thệ hạnh, cho nên trở thành trợ nghiệp. Xưng danhbản nguyện trong thệ hạnh, cho nên trở thành chính nghiệp quyết định vãng sanh. Như thế, ngài Thiện Đạo lấy ba phúc, mười sáu pháp quán của Quán kinh và hạnh của ba nghiệp thân, khẩu, ý trong Vãng sanh luận gọi chung là trợ nghiệp vãng sanh, lấy xưng danh có bảo chứng “nếu chúng sanh không vãng sanh” là bản nguyện chính định nghiệp, cho rằng thật sự là có giá trị mang tính tuyệt đối.

 

Tiết thứ tư 

Luận về ba tâm

Ngài Thiện Đạo cho rằng vãng sanh phải đủ ba tâm, đây là chính nhân của vãng sanh, nếu thiếu một tâm thì không thể được vãng sanh. Ba tâm là Chí thành tâm, Thâm tâmHồi hướng phát nguyện tâm. Nay thuật lại cách giải thích của ngài Thiện Đạo:

1. Chí thành tâm: Nghĩa là tâm chân thật, tức là khi tu hành ba nghiệp thân, khẩu, ý thì trong tâm phải chân thật, nếu như tâm tu giả dối thì cho dù trong mười hai thời ngày đêm ba nghiệp tu gấp rút mãnh liệt cũng đều gọi là tạp độc thiện, là tu hành giả dối; nếu đem tâm tu giả dối này mà hồi hướng, mong cầu sanh về Tịnh độ Phật A-di-đà thì chắc chắn không thể nào vãng sanh được. Vì lí do đó, nên lấy tu hành trong nhân của Phật A-di-đà, cho đến một niệm, một sát na đều tu từ trong tâm chân thật.

2. Thâm tâm: Tâm tin sâu, có hai loại là tin cơ và tin pháp:

Tin cơ: Tự mình tin sâu sắc chúng ta là hàng phàm phu nhiều đời thường lưu chuyển sanh tử, không có nhân duyên rốt ráo ra khỏi biển khổ, tức là tỉnh ngộ mình là phàm phu tội ác.

Tin pháp: Trong đó có hai loại là tựu nhân lập tín và tựu hạnh lập tín:

- Tựu nhân lập tín: Đức Phật Di-đà, Đức Phật Thích-ca và các Đức Phật trong mười phương đều là người, là lấy con người để lập tín tâm. Chính Phật Di-đà nói, Ngài thành tựu bốn mươi tám nguyện, nhiếp thọ chúng ta nên gọi là Bổn sư, tin sâu dựa vào nguyện lực của Ngài thì chắc chắn được vãng sanh. Chính Đức Phật Thích-ca nói, tin sâu Ngài nói trong Quán kinh chỉ rõ Tịnh độ Di-đà, tin sâu Ngài là giáo chủ của chúng ta. Chính các Đức Phật trong mười phương nói để chứng minh việc phàm phu vãng sanh là không sai, tin các Đức Phật là người làm chứng. Lại ở trong đó, tin bản nguyện của Phật Di-đà cũng như tin kinh Vô Lượng Thọ. Tin Đức Phật Thích-ca nói cũng có nghĩa là tin Quán kinh. Tin các Đức Phật làm chứng cũng là tin kinh A-di-đà.

- Tựu hạnh lập tín: Từ hạnh cầu vãng sanh mà lập tín, tức là tu hạnh vãng sanhsai biệt chính hạnhtạp hạnh. Chính hạnh có năm loại là Đọc tụng, Quán sát v.v…Trong đó, tin xưng danhbản nguyện của Phật Di-đà đã lập thệchính định nghiệp, chủ yếu là chúng ta phải tự biết mìnhphàm phu tội ác sanh tử, tin sâu ý nghĩa ba Phật, ba kinh đã nói, đặc biệt là Phật A-di-đà vì hàng phàm phu chúng takiến lập bản nguyện, tin sâu Ngài nhiếp thọ chúng sanh nên Ngài trở thành đạo sư của chúng ta. Đồng thời, trong chính hạnh vãng sanh cũng có năm loại sai biệt. Trong đó, xưng danh hiệu là chính định nghiệp của sanh nhân bản nguyện; đây gọi là Thâm tâm.

Thuyết này có lẽ từ thuyết ba tín của ngài Đàm Loan mà ra, tức là hiện nay trong văn đã nói “nhất nhất tin sâu” tương đương với “Thuần tín” trong ba tín của ngài Đàm Loan. Nói “quyết định” tương đương với “Thuần nhất quyết định tín” của ngài Thiện Đạo, lại cho rằng “niệm niệm không xả bỏ” tương đương với thuyết “tương tục” của ngài Thiện Đạo.

3. Hồi hướng phát nguyện tâm: Tức là hồi hướng thiện căn đã làm, nghĩa là phát nguyện vãng sanh Tịnh độ. Quán kinh sớ, ghi: “Lấy thiện căn của ta và người đã tu ở trong sự chân thật tin sâu mà hồi hướng nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc, gọi là Hồi hướng phát nguyện tâm”. Trong đó, hồi hướng là sanh về cõi nước Cực Lạc rồi, khởi tâm đại bi, trở lại sanh tử giáo hoá chúng sanh thì gọi là hồi hướng. Trong đây, đoạn trước nói hồi hướng thiện căn nguyện sanh về Tịnh độ tương đương với Vãng tướng hồi hướng của ngài Đàm Loan. Đoạn sau nói nguyện trở lại sanh tử giáo hoá chúng sanh tương đương với Hoàn tướng hồi hướng của ngài Đàm Loan. Do đó có thể biết, ngài Thiện Đạo giải thích Hồi hướng tâm chủ yếu dựa vào thuyết hồi hướng của ngài Đàm Loan.

Lại nữa, ngài Thiện Đạo lấy Hồi hướng phát nguyện tâmTác nguyện trong năm niệm môn, xem hai môn hồi hướngý nghĩa giống nhau, tức là giải thích tác nguyện thành phát nguyện. Vãng sanh lễ tán giải thích năm niệm môn: “Tác nguyện môn là chuyên tâm vào bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào; công đức do ba nghiệp, bốn oai nghi đã tạo đều phải phát nguyện trong tâm chân thật, nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc, cho nên gọi là Tác nguyện môn”. Vì thế, ngài Thiện Đạo lấy ba môn Lễ bái, Tán thánQuán sát trong năm niệm môn làm khởi hạnh của ba nghiệp thân, khẩu, ý; lấy hai môn Tác nguyệnHồi hướng bao gồm trong an tâm.

Bởi vì, ngài Thiện Đạo nhấn mạnh đầy đủ ba tâm khôngnghi ngờ, là y theo văn của Quán kinh đầy đủ ba tâm thì chắc chắn vãng sanh về cõi nước Cực Lạc, nhưng đặc biệt nhấn mạnh tính quan trọng của nó. Hồi hướng phát nguyện tâmđồng nghĩa với hai môn Tác nguyệnHồi hướng trong năm niệm môn. Lại nữa, hồi hướng tâm của ngài là nghĩa Vãng tướng hồi hướngHoàn tướng hồi hướng, tức là ý nghĩa của bồ-đề tâm. Vả lại, Thâm tâm là tương đương với ba tín là Thuần hậu v.v…của ngài Đàm Loan, cho rằng ba tâm này là sanh nhân không thể thiếu, dù vãng sanh vào bất kì Tịnh độ nào, nếu thiếu một tâm thì không được vãng sanh, dựa vào nghĩa này mà đề xướng ba tâm phải đầy đủ. Chắc là từ luận thuyết của ngài Đàm Loan mà ngầm chỉ ra điều chính yếu, mới có sự giải thích ba tâm như trên.

 

Tiết thứ năm

Bốn pháp tu

Ngài Thiện Đạo lấy an tâm, khởi hạnh đã thuật ở văn trên làm quy tắc thật tu và cần giữ bốn pháp tu; đây gọi là tác nghiệp. Bốn pháp tu là Cung kính tu, Vô dư tu, Vô gián tu và Trường thời tu. Bốn pháp tu này trích từ quyển thứ 8 Lương dịch Nhiếp Đại thừa luận thích, nay ngài Thiện Đạo chuyển dùng nghĩa này, làm thành quy củ sách tấn tu hành cho người nguyện sanh về Tịnh độ.

Cung kính tu: Có liên quan đến qui tắc thân nghiệp lễ bái, tức là khi chúng ta lễ bái Phật A-di-đà để bày tỏ thái độ ân cần cung kính.

Vô dư tu: Nói về qui tắc có liên quan đến chuyên tu ba nghiệp, tức là khi khởi hạnh bằng ba nghiệp thân, khẩu, ý thì không có xen tạp nghiệp khác, chỉ chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, cũng dạy lấy chuyên niệm, chuyên tưởng, chuyên lễ, chuyên tán thán Phật A-di-đà và thánh chúngTịnh độ, chỉ chuyên thực hành việc này gọi là chuyên tu. Tu xen tạp nghiệp khác gọi là tạp tu. Vãng sanh lễ tán nêu ra tạp tu có mười ba loại sai lầm, trong một trăm người chỉ mong được một, hai người vãng sanh; trong một nghìn người mong được năm, ba người vãng sanh. Chuyên tu là không bị các tạp duyên làm loạn động, lại tương ưng với bản nguyện của Đức Phật, cho đến vâng theo lời Phật dạy thì được lợi ích, tức là nói mười người niệm Phật thì mười người được vãng sanh, trăm người niệm Phật thì trăm người được vãng sanh.

Vô gián tu: Nêu ra qui tắc tâm hành thường tu liên tục, tức là an tâm, khởi hạnh đều không có gián đoạn luôn luôn liên tục. Tu xen tạp nghiệp khác thì chính hạnh gián đoạn. Vô gián tu này thì không xen tạp nghiệp khác, không khởi phiền não tham, sân làm gián đoạn chính hạnh. Nhưng chúng taphàm phu thường lưu chuyển sanh tử, vì không chuẩn bị trước nên khi gặp duyên đối cảnh sanh khởi phiền não; vì thế, nếu lúc phiền não sanh khởi mà tạo tội thì phải theo tội lỗi đã phạm mà sám hối, không để cách niệm, cách giờ, cách ngày, thường làm cho thân tâm thanh tịnh.

Trường thời tu: Biểu thị qui tắc một đời không thoái lui, tức là từ khi mới phát tâm, cho đến lúc lâm chung, tín hạnh tương tục, thề không dừng lại ở giữa chừng.

Tóm lại, vấn đề ngài Thiện Đạo đã nói, tuy là phàm phu thường lưu chuyển trong sanh tử nhưng nếu phát khởi ba tâm, chuyên tu năm loại chính hạnh, không xen tạp nghiệp khác, tu liên tụckhông giải đãi thì đến lúc mạng chung nương theo bản nguyện Di-đà, mới được vãng sanh về báo độ, là nơi báo thân của Phật Di-đà cư trú.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29893)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21768)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23603)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24756)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18989)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24764)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30975)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23990)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26514)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21316)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23228)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38135)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19048)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23172)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23881)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22808)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22912)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29577)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20642)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18710)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18859)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19683)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20155)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19955)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18119)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22942)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34167)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16919)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39249)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26077)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20098)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18858)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24064)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29144)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22903)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30965)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21010)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26855)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20678)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23325)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19818)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24682)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20224)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20406)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15839)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23900)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant