Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhứt thiết Phật nhiếp tương ưng Đại giáo vương kinh, Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát niệm tụng nghi quỹ

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 30921)
Nhứt thiết Phật nhiếp tương ưng Đại giáo vương kinh, Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát niệm tụng nghi quỹ

NHỨT THIẾT PHẬT NHIẾP TƯƠNG ƯNG
Đại giáo vương kinh
Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát niệm tụng nghi quỹ

Hán dịch: Đại sư Pháp Hiền
Việt dịch: Sa-môn Thích Viên Đức

Con nay quy mạng Phật, Bồ-tát
Diễn bày Tương Ưng Đại Giáo Vương
Lược thuật Quán Âm Bồ-tát nghi 
Nay làm công việc lợi quần sanh

 

Lúc bấy giờ đức Thế tôn vì muốn lợi ích các chúng sanh, diễn nói Đại Giáo Tương Ưng của chư Phật.

Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập. Nếu tu pháp này, trước cầu tịnh xứ, y nơi nghi quỹ chuyên tâm không giãi đãi, tu hành trước hết phải cho được tinh thục, nhiên hậu y pháp quán tưởng và tụng chữ “Hùm”. Chọn đất kiết giới làm pháp khiển ma xong, nơi ấy mới trải tòa cỏ mà ngồi. Lúc này người trì tụng phải đem hết sức vận tưởng, quán tưởng hiền thánh. Trước cần tịnh tam nghiệp, tức tụng Tịnh tam nghiệp chơn ngôn:

Úm Ca dã phạ cô tức đa Phạ nhật ra ta bà phạ đát ra cô ham.

Tụng chơn ngôn này rồi, lại nói thí dụ già-đà rằng:

Thí như sắc sen thơm trong sạch

Tuy sanh trong bùn không thể nhiễm

Như vậy chúng sanhphiền não

Thảy được trong sạch nơi tam giới.

Tụng già-đà rồi, tự mình tưởng nơi trên đảnh đội mão báu, trong đó có Phật Vô Lượng Thọ. Lại nữa, ở trong bổn tâm, tưởng ra một hoa sen trắng nở tròn, trên hoa sen kia có vành nguyệt luân, nơi trong nguyệt luân hiện ra chữ “Úm”, thể như hư không, chỉ cho Chơn thật đại trí, nhiên hậu tụng Khai huệ chơn ngôn:

Úm Tức đa Bát ra đê vi đặng Ca rô mi.

Tụng chơn ngôn này rồi, lại tưởng chúng bảo hóa thành hoa sen tám cánh, trên hoa sen quán tưởng vành nguyệt luân, trong nguyệt luân hiện ra chữ “Hột-lăng”, tức là bổn thân của Quán Tự Tại Bồ-tát ngồi kiết già phu. Thân ngài sắc đỏ, có hai tay. Bên tả của Bồ-tát, tưởng Bạch Y Bồ-tát tay cầm hoa sen. Lại tưởng tám phương hiền thánh: thứ nhất nơi cánh sen phía Đông, tưởng Vĩ-lộ-kiết-nễ Bồ-tát tay cầm hoa sen màu hồng. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Vĩ lô kiết nễ A phạ lô ca giả Ta phạ ha.

Nơi cánh sen phía Nam, tưởng Đa-la Bồ-tát, tay cầm hoa sen màu lục. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Đa rị Đốt đa rị Đốt rị Ta phạ ha.

Lại tưởng cánh sen phía Tây có Bộ-lị-ni Bồ-tát, tay cầm hoa Ưu-bát-la, trong hoa có tám vòng bức luân. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Bộ lị ni Ma hạ tát hật ra phạ lị để nể hồng.

Nơi cánh sen phía Bắc, tưởng hiện ra Tần-mi Bồ-tát, tay cầm hoa sen màu vàng. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Giáo lị cô trí đát trí mạt tra hùm.

Lại nơi cánh sen phía Đông-Bắc, tưởng hiện ra Bát-nạp-ma-phạ-tì-nể Bồ-tát, tay cầm hoa sen màu xanh lợt. Bồ-tát chân ngôn:

Úm Ma hạ Thất lị duệ Mani Bát nạp mi Hồng.

Lại nữa, nơi cánh sen phía Đông-Nam, tưởng hiện ra Phạ-nhật-ra Bát-nạp-ma-thuyết-lị Bồ-tát, tay cầm hoa sen trắng. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Phạ nhật ra Bát nạp mi Thấp phạ lị Đà ra Bát nạp mi Hồng.

Lại nữa, ở nơi cánh sen phía Tây-Nam, lại tưởng Vĩ-thuyết-Bát-nạp-ma Bồ-tát, tay cầm hoa sen đen. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Vĩ thấp phạ Bát nạp mi Hật lị.

Lại nữa ở cánh hoa sen phía Tây-Bắc, tưởng hiện ra Vĩ-thuyết-Phạ-nhựt-ra Bồ-tát, tay cầm chày yết-ma. Bồ-tát chân ngôn rằng:

Úm Vĩ thấp phạ Phạ nhựt lị Hồng.

Lại nữa, nơi giữa trung tâm của hoa sen, tưởng ngài Quán Tự Tại đại Bồ-tát, hiện đại diệu sắc thân. Chơn ngôn rằng:

Úm Hột lăng Bát nạp ma Na lị đế Thấp phạ ra Hồng.

Nếu người trì tụng bảy pháp quán tưởng các đại Bồ-tát và vi diệu chơn ngôn như vậy, và tụng chơn ngôn chuyên chú không thối chuyển, đấy là người đương lai mau chứng quả Phật. Mặc dù người ấy còn thọ ngũ dục lạc cũng có thể viên mãn thập Ba-la-mật và Tổng trì môn, cho đến Bích-chi Phật quả, Thập địa Bồ-tát và Phật, mau được thành tựu, chớ sanh nghi hoặc.

Lại nữa, người trì tụng cũng cần thường phục năm món Đại thừa dược, nghĩa là: Mạo địa tức đa yết lị bố ra ra hật đa tán nại na phạ nhật ra ô na ca… Nếu hay thường phục những thuốc như vậy và trì tụng không trễ nãi, sẽ chóng xa lìa già, bịnh, khổ, tăng trưởng thọ mạng, biến đổi sắc tướng, người thấy kính mến, hiện đời hoạch đắc thành tối thượng trí.

Lại nữa, đã có tức tai, tăng ích, kính ái, hàng phục, cho đến câu triệu, trừ diệt các ma, phát khiển oán ác, cấm pháp, đả ác pháp, cho đến phi không tự tại và các tam-ma-địa, nếu tu Quán Tự Tại pháp thì thảy đều thành tựu.

Quán Tự Tại Bồ-tát căn bản chơn ngôn rằng:

Úm Hột lăng Bát nạp ma Na lị đế Thấp phạ ra Hồng.

Lại nữa, nếu người trì tụng thường niệm Quán Tự Tại Bồ-tát căn bản chơn ngôn này, ngày đêm tụng 108 biến, những tội mà người ấy đã tạo ra thảy đều được tiêu diệt.

Tụng 500 biến hay trừ tất cả bịnh.

Nếu mỗi ngày tụng 1000 biến được thọ mạngtăng trưởng.

Nếu tụng 2000 biến được mọi người cung kính.

Nếu tụng 3000 biến, mọi người kính mến, tăng trưởng giàu có.

Nếu tụng 4000 biến xa lìa bần khổ.

Tụng 5000 biến hay khiến các oan gia thân tâm mờ mịt.

Tụng 6000 biến hay hàng các oan gia.

Tụng 7000 biến hay hàng Tứ ma.

Tụng 8000 biến hay hàng chư ThiênThiên nữ.

Tụng 9000 biến hay hàng Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ.

Tụng một vạn biến hay hàng thiên long và nhơn.

Tụng hai vạn biến hiền thánh làm cho thành tựu các pháp ẩn thân.

Tụng ba vạn biến hay mãn tất cả nguyện.

Tụng bốn vạn biến sẽ được đằng không tự tại.

Tụng năm vạn biến sẽ được thánh kiếm thành tựu.

Tụng sáu vạn biến sẽ được Trì Minh Thiên.

Tụng bảy vạn biến được làm chúa trong thế gian.

Tụng tám vạn biến được địa vị Thiết Luân Vương.

Tụng chín vạn biến sẽ được địa vị Kim Luân Vương.

Tụng một lạc-xoa số sẽ được địa vị Bồ-tát.

Nếu tụng 10 lạc-xoa sẽ được tự tại, mãn thập địa vị.

Tụng 50 lạc-xoa số, chứng Phật vị.

Tụng một câu-chi số sẽ được cụ túc Cực Lạc thế giới Vô Lượng Thọ Phật thân khẩu ý, lợi lạc chúng sanh.

Lúc bấy giờ đức Thế tôn lại nói Bạch Y Bồ-tát chơn ngôn:

Úm Bán nõa ra Phạ tỉ nể Pha ra nễ Hồng.

Nếu người thường hay trì tụng Bạch Y Bồ-tát vi diệu chơn ngôn, tất cả tội nghiệp đã phạm thảy đều được tiêu diệt. Nếu hay y pháp chuyên chú trì tụng mãn bảy ngày, hết thảy nhân dân trong quốc thành đều phụng trọng hành giả. Tụng một tháng, thu hoạch đại giàu có. Trì tụng như vậy cho đến một lạc-xoa số, sẽ được cùng Bồ-tát oai lực không khác.

Lại nữa (đức Thế tôn) nói Vĩ-lộ-kiết-nễ Bồ-tát chơn ngôn rằng:

Úm Vĩ lộ kiết nễ A phạ lộ ca giả Ta phạ ha.

Nếu người y pháp, trì tụng vi diệu chân ngôn của Bồ-tát này một vạn biến sẽ được thành tựu thánh kiếm. Nếu trì tụng có sở cầu việc gì, nên lấy cây tăm chùi răng gia trì 21 biền chùi răng mà nằm cầu việc gì, trong mộng đều ứng nói. Phàm việc đã nói ra, thảy đều chân thật.

Lại nữa (đức Thế tôn) nói Đa-la Bồ-tát chơn ngôn rằng:

Úm Đa lị Đốt đa lị Đốt lị Ta phạ ha.

Nếu người y pháp trì tụng vi diệu chân ngôn Bồ-tát này một lạc-xoa số, thì có thể hàng phục tam giới. Các thiên, long, A-tu-la, Trì Minh Thiên và những kẻ nữ kia đến làm kẻ tôi bộc, tùy tâm mình sai khiến. Người trì tụng nếu muốn làm pháp câu triệu thiên long và những vị nữ ấy đến, nên tưởng thân các vị ấy sắc đỏ, giữa tâm có kim cang câu, hào quang rực rỡ, câu nơi tâm của vị ấy. Lại tưởng quyến tác buộc nơi cổ chân làm tướng sợ hãi. Phàm chế câu triệu ấy tùy lúc trì tụng quyết định mau đến, có sở cầu việc gì, thảy đều tùy tâm.

Lại nữa (đức Thế tôn) nói Bộ-lị-ni Bồ-tát chơn ngôn:

Úm Bộ lị ni Ma ha tát hật ra phạ lị để nể hồng.

Nếu người trì tụng vi diệu chân ngôn Bồ-tát, muốn cầu thành tựu, trước nên dùng những thuốc Vĩ nạ phạ phạ nhật rô na ca thoa nơi đạo tràng, tưởng như mặt trăng tròn, nhiên hậu tùy sức trang bị hương hoa cúng dường ở trong đàn. Người trì tụng nhiên hậu kiết già phu tọa, nhất tâm chuyên chú trì tụng không biếng trễ, có việc sở cầu gì quyết được thành tựu, sau khi mạng chung được sanh Cực Lạc thế giới.

Lại nữa (đức Thế tôn) nói Tần-mi Bồ-tát chơn ngôn rằng:

Úm Giáo lị cô trí đát trí mạt tra hồng.

Nếu người trì tụng vi diệu chân ngôn Bồ-tát này muốn làm phép điều phục, phải lấy đất dưới chân của kẻ oan gia và đất hai bên bờ sông, lại dùng thuốc độc, giới tử, muối, máu và cốc-vĩ-nã-phạ, phạ-nhật-rô-na-ca… đồng hòa làm bùn dẻo nắn hình tượng kẻ oan gia, dùng xương người làm đinh nọc, đóng nơi thân phần chi tiết của tượng oan gia đặt trong cái đầu lâu, dụng độc lâu ấy đem nơi thi đà lâm, dùng lửa thiêu tử thi thiêu cháy ra tro. Tụng chơn ngôn gia trì trải qua 21 ngày đêm quyết định điều phục.

Lại nói Bát-nạp-ma-phạ-tì-nể Bồ-tát chơn ngôn rằng:

Úm Ma hạ Thất lị duệ Mani Bát nạp mi Hồng.

Nếu trì tụng vi diệu chân ngôn Bồ-tát này, trước phải lấy năm món hương hoacúng dường, rồi mới có thể trì tụng. Có thể làm tất cả việc ủng hộ.Nơi luận nghị, quyết định đắc thắng, được đại tự tại cũng như đức Quán Tự Tại Bồ-tát. Nếu lấy một vạn cái hoa sen làm pháp hộ-ma, được làm địa chủ. Nếu dùng hoa sen 10 vạn để làm phép hộ-ma, được làm Chuyển Luân Vương vị.

Đức Thế tôn lại nói Phạ-nhật-ra Bát-nạp-ma-thuyết-lị Bồ-tát chơn ngôn:

Úm Phạ nhật ra Bát nạp mi Thuyết lị Phạ ra Bát nạp mi Hồng.

Nếu người trì tụng,lúc khởi tâm niệm vi diệu chơn ngôn của Bồ-tát này, liền hay câu triệu, hàng phục. Nếu tụng bảy biến hay ủng hộ tự thân. Nếu tụng 1000 biến hay trừ độc dược, đao kiếm, sư tử, rắn, lửa, giặc, cấm phược, các nạn hải quỷ…, và trừ những bịnh sai-kha-lị-cô, na-ca-nạp, nhai-lị-mi, đa-nạp-lị-lãng, nghĩ-da các bịnh… và toái trừ tất cả ác độc chúng sanh. Nếu tụng 10 vạn biến, tăng trưởng thọ mạng, già trở lại thành trẻ, thân tướng viên mãn, Chúng nhân ái kính. Nếu gặp cảnh hạn hán, thì phải lựa chỗ đất họa vẽ một ao rồng. Liền nơi trước ao, tâm niệm tên con rồng, đoạn lấy hạt cải trắng và muối làm phép hộ-ma, liền giáng một trận mưa lớn.

Đức Thế tôn lại nói Vĩ-thuyết-Bát-nạp-ma Bồ-tát chơn ngôn:

Úm Vĩ thấp phạ Bát nạp mi Hật lị.

Nếu người chuyên chú trì tụng vi diệu chơn ngôn Bồ-tát này, sẽ được cụ túc thân khẩu ý nghiệp, có công năng thành tựu các việc, nghĩa là cấm phục pháp, vọng lượng pháp, quỷ mị pháp, đinh quyết pháp, câu tha tâm pháp, huyển hóa pháp, cho đến khai mở hang A-tu-la và ẩn thân phi không tự tại, thảy đều thành tựu.

 Lại nữa (đức Thế tôn) nói Vĩ-thuyết-Phạ-nhựt-ra Bồ-tát chơn ngôn:

Úm Vĩ thuyết phạ Phạ nhựt lị Hồng.

Nếu người trì tụng chuyên chú vi diệu chơn ngôn Bồ-tát này, không biếng nhác y pháp trì tụng, thường hay ủng hộ tự tha và được tất cả kính ái, cho đến thu hoạch đại biện tài, hay thắng tha biện. Vị Bồ-tát này hay ở nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cứu độ chúng sanh phát đại tinh tấn như Quán Tự Tại Bồ-tát. Nếu có người tin trọng Phật pháp thì Bồ-tát như người mẹ hiềnthường theo ủng hộ.

Phật dạy: “Nếu có người đối với Nhứt thiết Như Lai Nhiếp Tương ưng Đại giáo vương kinh, Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát niệm tụng nghi quỹ này tâm không còn nghi hoặc, kiên cố tu hành, sẽ được thành tựu pháp rốt ráo. Lại nữa, nếu có người không vào mạn-đà-la, cho đến bị đủ phiền não, gồm cả bạc phước…, nếu người ấy tùy ý ưa muốn, đi đứng nằm ngồi, hoặc nói hoặc cười không hở các việc, thường phát Bồ-đề tâm, tưởng chơn thật lý, thường nên trì tụng, thì phép đã làm đều được thành tựu.

Lại nữa, người trì tụng phát Bồ-đề tâm, phục năm món thánh dược, nghĩa là Ma hạ ra mật dương yết lị bố rô ra mật đa tán nại na…, y Quán Tự Tại Bồ-tát nghi quỹ trì tụng và cúng dường hiền thánh, người ấy tuy không làm Phật tượng cũng có thể thu hoạch được tối thượng tương ưng hoặc Kim Cang Tát-đỏa Bồ-tát vị, mau chứng Bồ-đề.

Như vậy thành tựu phải có tướng gì? Pháp Bồ-đề phần, Ba-la-mật tổng trì, Thập địa môn… tự nhiên thành tựu. Nếu người có thể hay y nơi Nhứt thiết Phật Tương ưng pháp trì tụng, tức cùng tất cả Phật không khác.

Lại nữa, nếu người trì tụng tâm chưa vắng lặng, không thấu rõ pháp tương ưng, ta nay vì người kia nói phương pháp họa tượng. Nếu người trì tụng muốn họa dung nhan bức tượng, trước phải tìm một thợ vẽ rất khéo đẹp, thân tâm thanh khiết, dự tu trai giới. Dùng lụa thượng hảo, mềm mỏng, hai đầu thật bằng, dài hai thước. Đoạn dùng những thứ màu sắc tuyệt đẹp, nơi trên tấm lụa vẽ một vành trăng tròn. Trong vành trăng lại vẽ hoa sen tám cánh nhiều sắc, giữa trung tâm hoa sen vẽ ngài Quán Tự Tại Bồ-tát thân sắc đỏ, ba mặt sáu tay, đầu đội mão báu, trong mão có đức A-sơ Phật, mặt phía hữu sắc đen hiện tướng phẫn nộ, mặt tả sắc trắng, sáu tay y theo pháp nắm cầm hoa sen.

Nơi cánh hoa phương Đông vẽ Vĩ-lộ-kiết-nễ Bồ-tát thân sắc trắng, tay tả cầm hoa sen đỏ, tay hữu cầm chày kim cang.

Vị ở cánh sen phía Nam: vẽ Đa-la Bồ-tát thân sắc lục, tay tả cầm hoa sen màu lục, tay hữu cầm bảo trì.

Vị ở cánh sen phía Tây: vẽ Bộ-lị-ni Bồ-tát thân sắc màu vàng ròng, tay cầm hoa sen Ưu-bát-la, trong có Pháp luân.

Vị ở cánh sen phía Bắc: vẽ ngài Tần-mi Bồ-tát thân màu hồng bạch, tay cầm hoa sen màu vàng và cầm cây gươm bén.

Vị ở cánh sen phía Đông-Bắc: vẽ ngài Bát-nạp-ma-tỉ-nể Bồ-tát thân sắc vàng kim, tay cầm hoa sen màu xanh dương.

Vị ở cánh sen phía Đông-Nam: vẽ Phạ-nhựt-ra-bát-nạp-mi-thuyết-lị Bồ-tát thân sắc như hư không, tay cầm hoa sen trắng và xâu chuỗi ngọc pha lê.

Vị ở cánh sen phía Tây-Nam: vẽ Vĩ-thuyết-bát-nạp-ma Bồ-tát, thân ngài như ánh trăng thu, tay cầm hoa sen màu đen và cầm Kinh Pháp.

Vị ở cánh sen phía Tây-Bắc: vẽ ngài Vĩ-thuyết-Phạ-nhựt-ra Bồ-tát thân ngài có đủ các sắc, tay cầm hoa sen.

Lại ở bên ngoài cánh sen, bốn phía vẽ Tứ thân cận Bồ-tát Múa, Cười, Tràng hoa, Ca. Thứ lại nơi bốn cửa, tưởng Nịch ( ), Hồng ( ), Vãm ( ), Hô ( ), bốn chữ vi diệu biến thành bốn vị Bồ-tát móc câu, dây quyến sách, xích, chuông, bốn vị hộ nơi bốn cửa.

Lại nữa, nói về tượng pháp. Như trước đã nói, nên tuyển lựa vị họa sư rất tinh xảo. Lấy lụa trắng tốt như trên mà họa tượng Quán Tự Tại Bồ-tát thân sắc như ánh trăng thu, đầy đủ tướng tốt, đầu đội mão báu, trong mão có đức Vô Lượng Thọ Phật, thân có tám tay. Tay mặt thứ nhất cầm xâu chuỗi, tay thứ hai cầm cây gậy báu, tay thứ ba cầm chỉa ba, tay thứ tư bắt Thí nguyện ấn. Tay thứ nhất bên tả cầm hoa sen, tay thứ hai cầm bình Quân-trì, tay thứ ba cầm dây quyến sách, tay thứ tư cầm quyển Kinh Bát-nhã. Bồ-tát mặc áo da cọp, với dây nịt hình con rồng, hoặc đứng hoặc ngồi kiêt-già phu trên hoa sen. Phía hữu Bồ-tát, vẽ người trì tụng tay cầm bát Ứ-già và lư hương, hình tướng tác lễ cung kính.

Lại nữa nói họa tượng pháp. Như Bổ-đà-lạc-ca sơn tướng nghi, vẽ Quán Tự Tại Bồ-tát thân sắc trắng, đầy đủ tướng viên mãn, mặc y trắng trang nghiêm. Tay hữu cầm xâu chuỗi, tay tả chống má tác tướng suy nghĩ lợi ích tất cả chúng sanh, ngồi trên tòa sư tử liên hoa, chân tả thòng xuống để nơi hoa sen, chân hữu để trên tòa liên hoa.

Lại nói họa tượng pháp nữa. Như trước đã trình bày, trên lụa tốt vẽ Quán Tự Tại Bồ-tát thân màu hồng bạch có 10 tay. Tay thứ nhất bên hữu cầm tràng chuỗi, còn bốn tay kia làm tướng Thí vô úy cứu chúng sanh khổ nạn. Tay thứ nhất bên tả cầm hai nhánh sen đỏ, trên có Kinh Bát-nhã, còn bốn tay kia cũng làm tướng Thí vô úy cứu chúng sanh khổ nạn. Bồ-tát ngồi trên sư tử liên hoa tòa, thòng chân tả xuống, gác trên hoa sen. Nơi mặt phía hữu của Bồ-tát vẽ sư tử, voi, hỏa xà. Bên mặt tả vẽ tặc cấm phược hải quỷ. Chúng sanh gặp tám nạn như vậy, làm tướng Bồ-tát cứu độ.

Lại nói họa tượng pháp như trước nữa. Dùng lụa tốt vẽ Quán Tự Tại Bồ-tát trong nguyệt luân, hiện các sắc, có 13 đầu đều đội mão báu, trong có đức Vô Lượng Thọ Phật. Mặt chính viên mãn, mặt thứ 13 màu xanh lục hiện tướng mã đầu, có 100 tay, tay cầm các loại khí trượng Yết-ma. Hoặc họa 100 đầu 1000 tay, tay cũng lại cầm các thứ khí trượng Yết-ma.

Bên hữu các họa tượng đã nói, đều vẽ người trì tụng làm tướng hồ quỳ cung kính, tay cầm bát Ứ-già và lư hương.

Trong các dung nhan ảnh tượng như đã nói trên, người trì tụng tùy tâm họa lấy một tướng, mỗi mỗi đều cần phải phát tâm tối thượng thù thắng. Họa được dung nhan rồi, liền bày biện các món thù diệu, hương hoa, ẩm thực, các thứ cúng dường. Nơi trước tôn tượng nên thỉnh vị a-xà-lê y pháp làm lễ khánh tán xong rồi, người trì tụng nhiên hậu tự mình phải tinh khiết thanh tịnh, nơi trước tượng, an tọa định tâm, tụng Quán Tự Tại Bồ-tát Vi diệu căn bản chân ngôn. Nếu xa lìa được các nghi hoặc, chuyên chú không thôi nghỉ, tất cả việc làm quyết định thành tựu.

Lại nữa, vị a-xà-lê làm lễ khánh tán và truyền giao Căn bổn Vi diệu chân ngôn này rồi, người trì tụng kia làm đệ tử lễ bái cung kính, nên đem tất cả các món trân bảo, vàng bạc, tài vật cho đến quốc thành, và cả thân mạng đều có thể phụng thượng vị a-xà-lê để làm lễ đáp tạ. Vì sao thế? Vì Pháp như trên rất là khó được gặp gỡ, huống chi lại được truyền thọ. Vậy cho nên hết sức thành tâm cầu vị a-xà-lê, nguyện thí hoan hỉ.

Lại nữa Pháp này không được truyền cho những kẻ dung dị, vì kẻ ấy tâm không cung kính chí thành, sở chiêu ác báo.

 

PHẬT NÓI NHẤT THIẾT PHẬT NHIẾP TƯƠNG ƯNG ĐẠI GIÁO VƯƠNG KINH,
THÁNH QUÁN TỰ TẠI BỒ-TÁT NIỆM TỤNG NGHI QUỸ

Sa-môn Thích Viên Đức dịch ra Việt văn năm 1975, bản thô, chưa chỉnh sửa.
Nhập liệu: Chúc Huy Nguyễn Minh Hoàng

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23614)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20431)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21950)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24760)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18994)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23995)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26528)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21329)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23233)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38142)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19990)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23176)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22927)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29588)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20648)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18714)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15850)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19690)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22949)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34183)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16922)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18864)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24069)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29154)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30970)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21014)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26862)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26269)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20231)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20410)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15841)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23911)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19864)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant