Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Phẩm Đốn Tiệm

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 13385)
8. Phẩm Đốn Tiệm

PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Minh Trực Thiền Sư Việt dịch

8. Phẩm Đốn Tiệm 
(Pháp tu chứng quả tức khắc và Pháp tu chứng quả từ bậc.) 

Lúc Tổ Sư ở chùa Bửu Lâm tại Tào Khê, thì Thần Tú Đại Sư ở chùa Ngọc Tuyền tại Kinh Nam. Bấy giờ, cả hai phái đều diễn hóa rất thạnh hành. Người người đều xưng Nam Năng Bắc Tú, cho nên mới phân hai phái Đốn và Tiệm ở phương Nam và phương Bắc. Nhưng các học giả chưa biết được cái tông thú. 

Tổ Sư mới gọi đại chúng mà bảo rằng: "Pháp vốn là một tông, còn người thì có Nam và Bắc. Pháp tức là một giống, còn chỗ thấy thì có mau chậm. Pháp không có mau chậm. Bởi con người có tánh sáng tối, cho nên mới gọi là Mau Chậm." 

Nhưng các môn đồ của Sư Thần Tú thường chê Tổ Sư phái Nam Tông là dốt, không biết một chữ, có chỗ nào hay đâu ! 

Thần Tú bảo chúng rằng: "Lục Tổ người đặng cái trí vô sư (Không thầy dạy mà sáng biết-nd), thâm ngộ Pháp Thượng Thừa, ta đây chẳng bằng người vậy. Vả thầy ta là Ngũ Tổ đích thân truyền y pháp cho người, há phải là việc vô cớ sao? Ta tiếc vì không đi xa được mà gần gủi với người, nên phải đành chịu ân huệ của vua. Các ông chớ trì trệ ở đây, khá qua Tào Khê viếng Lục Tổnghe lời khẩu quyết
 

Một ngày kia, sư Thần Tú bảo môn nhơn là Chí Thành rằng: "Ông thông minh, đa trí, khá vì ta mà đến Tào Khênghe pháp. Nếu nghe đặng chỗ nào, hãy hết lòng nhớ lấy, rồi trở về nói lại cho ta rõ." 

Chí Thành vâng mạng đến Tào Khê, nhập theo đại chúng đến viếng và cầu dạy, nhưng chẳng nói ở đâu lại. Khi ấy, Tổ Sư bảo chúng nhơn rằng: "Nay có kẻ trộm pháp ẩn tại hội này." 

Chí Thành liền bước ra làm lễ, và bày tỏ hết các việc của Sư Thần Tú dặn. 

Sư rằng: "Ông ở chùa Ngọc Tuyền đến, lẽ ưng là dọ thám." 

Đáp: "Chẳng phải vậy." 

Sư nói: "Sao đặng gọi là chẳng phải?" 

Đáp: "Chưa nói ra thì phải như thế, nói ra rồi thì chẳng phải vậy." 

Sư hỏi: "Thầy ông dạy chúng thế nào?" 

Đáp: "Thường chỉ dạy đại chúng trụ tâm quán tịnh, ngồi mãi không nằm." 

Sư nói: "Trụ tâm quán tịnh, ấy là bịnh, chẳng phải Thiền. Thường ngồi là câu thúc cái thân, đối với đạo lý, có ích chi đâu ! 

 

Hãy nghe ta kệ: 

Khi sống, ngồi không nằm 

Khi chết, nằm không ngồi 

Gốc thiệt đồ xương thúi 

Làm sao lập công, tội ?" 

 

Chí Thành lại làm lễ mà bạch rằng: "Kẻ đệ tử theo ở với Thần Tú Đại Sư, học Đạo chín năm, mà chẳng đặng tỏ sáng. Nay nghe Hòa Thượng nói một lần, liền tỏ sáng Bổn tâm. Việc sống thác là lớn, đệ tử xin Hòa Thượng mở lượng từ bi chỉ dạy." 

Sư rằng: "Ta nghe nói thầy của ông dạy pháp Giới Định Huệ cho các học giả, nhưng chưa rõ thầy ông nói cái hạnh tướng của Giới Định Huệ như thế nào. Hãy nói lại cho ta nghe." 

Chí Thành bạch: "Tú Đại Sư nói: Các điều dữ chớ làm, gọi là giới. Các điều lành vâng làm, gọi là Huệ. Giữ ý mình trong sạch, gọi là Định. Thầy tôi nói như vậy, chưa rõ Hòa Thượng dùng pháp nào mà dạy người?" 

Sư nói: "Nếu ta nói có pháp dạy người, tức là nói dối với ông. Ta chỉ tùy phương tiện mà giải thoát cho người. Phương tiện ấy giả gọi là Tam Muội. Cứ như chỗ thầy ông nói về môn Giới Định Huệ thiệt không thể nghĩ bàn được. Chỗ ta nói về Giới Định Huệ lại khác." 

Chí Thành bạch: "Giới Định Huệ chỉ hợp có một thứ, thế nào lại khác?" 

 

Sư nói: "Pháp Giới Định Huệ của thầy ông để tiếp độ người đại thừa. Còn pháp Giới Định Huệ của ta để tiếp độ người Tối Thượng Thừa. Chỗ tỏ hiểu không đồng, chỗ thấy có mau chậm. Ông nghe chỗ ta nói với chỗ thầy ông nói, có đồng nhau chăng? Chỗ ta nói pháp không lìa tánh mình. Lìa Bổn Thể mà nói pháp, là trước tướng mà nói, thế thì tánh mình thường mê. Phải biết muôn pháp đều do tánh mình mà khởi dụng, thế mới thiệt là pháp Giới Định Huệ. Hãy nghe ta kệ: 

Tâm Địa không quấy, thì tánh mình Giới 

Tâm Địa không si, thì tánh mình Huệ 

Tâm Địa không rối, thì tánh mình Định 

Không thêm, không bớt , thì tánh mình Kim Cang 

Không tới không lui, vốn là Tam Muội

 

Chí Thành nghe kệ rồi, ăn năn cám ơn, và trình kệ rằng: 

Năm uẩn huyển thân này 

Huyễn nào mong cứu cánh? 

Trở thú tánh chơn như 

Pháp còn chưa thật tịnh 

 

Sư khen phải, lại nói với Chí Thành rằng: "Pháp Giới Định Huệ của thầy ông để khuyên các người căn trí nhỏ, còn pháp Giới Định Huệ của ta để khuyên các người căn trí lớn. Nếu mình tỏ sáng tánh mình, thì chẳng nên lập Bồ Đề Niết Bàn, cũng chẳng nên lập Giải Thoát Tri Kiến. Không có một pháp nào tìm được ở trong tánh mình, và mới tạo lập được muôn pháp. Nếu hiểu được cái ý chỉ ấy, thì gọi là Phật thân, cũng gọi là Bồ Đề Niết Bàn, là Giải Thoát Tri Kiến. Người thấy tánh lập ra cũng đặng, chẳng lập ra cũng đặng. Đi lại tự do, không ngừng, không ngại, phải chỗ dùng thì tùy cơ mà làm, phải chỗ nói thì tùy cơ mà đáp, hiện khắp hóa thân mà chẳng lìa tánh mình, tức là đặng Tự Tại Thần Thông Du Hí Tam Muội. Ấy gọi là thấy tánh. 

Chí Thành lại bạch: "Cái nghĩa chẳng lập là sao?" 

Sư nói: "Tánh mình không quấy, không si mê, không tán loạn, niệm niệm trí huệ thường soi, thường lìa pháp tướng, tự do tự tại, dọc ngang đều ứng đối đặng cả, thì có pháp nào mà đặng lập? Tánh mình tự tỏ sáng, tỏ liền tu liền, cũng không lần lượt theo thứ lớp. Sở dĩ nên chẳng lập cả thảy các pháp. Các pháp đều vắng lặng, thì có gì là thứ lớp. 

Chí Thành làm lễ, nguyện theo hầu hạ Tổ Sư, sớm tối không bê trễ. 

------------------------------- 

Thầy tăng Chí Triệt, người ở Giang Tây, họ Trương, tên Hạnh Xương, còn trẻ mà có tánh thành thậtcan đảm

Từ khi Nam Bắc chia rẽ việc hóa độ, hai vị tông chủ tuy không phân nhơn ngã, nhưng các môn đồ cùng tăng tử của hai phái thường cạnh tranh và sanh lòng yêu ghét nhau. Lúc bấy giờ, môn nhơn phái Bắc tông tôn Sư Thần Tú làm Tổ thứ Sáu, nhưng còn hiềm Huệ Năng Tổ Sư vì được truyền y-bát làm cho thiên hạ đều hay, nên sai Hạnh Xương đến thích khách Đại Sư. Đại SưTha Tâm Thông, biết trước việc ấy, nên bảo một vị đệ tử cư sĩ thân tín lấy mười lượng vàng, để sẵn nơi chỗ ngồi. Lúc đêm khuya, Hạnh Xương vào phòng Tổ Sư và toan muốn làm hại. Sư đưa ngay cổ cho chém ba lần, mà không phạm chỗ nào cả. 

Sư nói: "Gươm chánh không dùng vào việc tà, gươm tà không dùng vào việc chánh được. Ta chỉ thiếu ông vàng, chớ không thiếu ông nợ mạng." 

 

Hạnh Xương hoãng kinh ngã ngữa, một hồi lâu mới tỉnh lại, bèn cầu khẩn ăn năn tội lỗi, và liền nguyện xuất gia

 

Sư lấy vàng cho và nói: "Ông đã phạm trọng tội. Ông hãy đi, sợ e đồ chúng hại ông. Một ngày kia, ông khá đổi hình dạng, rồi đến đây, ta sẽ nhận và độ ông." 

Hạnh Xương vâng theo ý Đại Sư, đêm ấy trốn đi. Sau Hạnh Xương xuất gia làm tăng, thọ Cụ túc Giới, và tu hành rất tinh tấn. Một ngày kia, nhớ lời Sư dạy, Hạnh Xương từ phương xa đến làm lễ ra mắt Ngài. 

Sư nói: "Ta có lòng nhớ ngươi đã lâu, sao ngươi tới muộn?" 

Hạnh Xương bạch: "Ngày trước nhờ ơn Hòa Thượng tha tội, nay tuy xuất gia khổ hạnh, nhưng sau này đệ tử ắt khó trả được cái ân đức ấy, chỉ mong Tổ Sư truyền pháp để độ chúng sanh mà thôi. 

Đệ tử thường xem kinh Niết Bàn mà chưa hiểu cái nghĩa Thường và Vô Thường, xin Hòa Thượng từ bi lược giải cho." 

Sư nói: "Vô Thường tức là Phật Tánh. Hữu Thường là cái tâm phân biệt cả thảy các pháp thiện ác vậy." 

Hạnh Xương bạch: " Chỗ Hòa Thượng nói rất trái với kinh văn." 

Sư nói: "Ta truyền cái tâm ấn Phật, đâu dám nói trái với kinh Phật !" 

Hạnh Xương bạch: "Kinh nói Phật tánh là Thường, Hòa Thượng lại nói là Vô Thường. Các pháp thiện ác cho đến cái tâm Bồ ĐềVô Thường, Hòa Thượng lại nói là Thường. Mấy lời ấy trái nghịch nhau, khiến kẻ học này thêm nghi hoặc." 

Sư nói: "Kinh Niết Bàn, xưa ta nghe Ni Cô Vô Tận Tạng tụng một biến, thì có giảng thuyết cho người nghe. Chỗ ta nói không có một chữ một nghĩa nào mà chẳng hợp với kinh văn. Nay ta giảng cho ông nghe, thì cũng toàn một nghĩa không hai." 

Hạnh Xương bạch: "Kẻ học này, sức hiểu biết còn cạn tối, xin Hòa Thượng chỉ dạy chu đáo." 

Sư nói: "Ông biết chăng, nếu Phật Tánh là Thường, thì nói làm chi các pháp Thiện Ác, lại sao đến cùng kiếp, không có một người phát Bồ Đề Tâm? Cho nên ta nói là Vô Thường, mà chính Phật nói là Đạo Chơn Thường. Lại nếu các Pháp là Vô Thường, tức vật vật đều có tự tánh, gồm chịu sự sống chết, mà cái tánh Chơn Thường có chỗ chẳng biến khắp. Cho nên ta nói là Thường, mà đó Phật nói cái nghĩa Chơn Vô Thường vậy. Vì các người phàm phu ngoại đạo chấp nơi Tà Thường, các người trong Nhị Thừa đối với Thường kể là Vô Thường, chỗ mê chấp của hai phái cộng lại thành tám điều trái ngược, cho nên trong bài Liễu Nghĩa GiáoKinh Niết Bàn, Phật phá chỗ thiên kiến mà nói rõ chỗ Chơn Thường, Chơn Lạc, Chơn Ngã, Chơn Tịnh. 

Ông nay y theo lời nói mà lại hiểu trái nghĩa. Ông nhận lấy chỗ Đoạn Diệt Vô Thường và định chắc cái Tử Thường, mà hiểu lầm huyền vi viên diệu của Phật nói lần sau cùng. Như thế, dầu xem kinh ngàn biến, nào có ích gì?" 

Hạnh Xương hốt nhiên rất tỏ sáng, liền nói kệ rằng: 

Người chấp "Vô Thường Tánh" 

Phật nói: "Hữu Thường Tâm" 

Chẳng dè Phương Tiện Pháp 

Ao Xuân lượm sỏi, lầm 

Ta nay công chẳng dụng 

Phật Tánh, hiện rõ ràng 

Chẳng nhờ sự chỉ giáo 

Ta đâu biết rõ đường. 

 

Sư lại nói: "Ông nay đã thông triệt, nên đặt tên là Chí Triệt." 

Tăng Chí Triệt làm lễ tạ ơn, rồi lui ra. 

---------------------- 

Có một đồng tử tên là Thần Hội, con nhà họ Cao, ở huyện Tương Dương, mười ba tuổi, từ chùa Ngọc Tuyền đến làm lễ Đại Sư

Sư hỏi: "Trí thức ở phương xa đến, thiệt là khó nhọc, mà có phục đặng tánh Bổn Lai chăng? Nếu có gốc, thì phải biết ngôi Chủ. Hãy nói thử ta nghe." 

Thần Hội bạch: "Lấy không trụ làm gốc, thấy tức là chủ." 

Sư nói: "Gả Sa di này tranh chỗ đối chiếu mà nói bướng." 

Thần Hội liền hỏi: "Hòa Thượng ngồi Thiền, thấy hay chẳng thấy?" 

Sư lấy gậy đánh Thần Hội ba gậy mà hỏi rằng: "Ta đánh ông đau hay chẳng đau?" 

Đáp: "Cũng đau mà cũng chẳng đau." 

Sư nói: "Ta cũng thấy mà cũng chẳng thấy." 

Thần Hội hỏi: "Cũng thấy mà cũng chẳng thấy, nghĩa là sao?" 

Sư nói: "Ta thấy, là thường thấy các tội lỗi của tâm mình, mà chẳng thấy các điều phải quấy, tốt xấu của người. Bởi vậy, cũng thấy mà cũng chẳng thấy. Ông nói "Cũng đau mà cũng chẳng đau" nghĩa là sao? Nếu ông chẳng biết đau, thì đồng với loài cây đá; Mà biết đau thì đồng với kẻ phàm phu, liền sanh giận hờn. Cứ như chỗ ông hỏi trước: Thấy hay chẳng thấy? là còn chấp hai bên. Chỗ ông nói: Cũng đau mà cũng chẳng đau, ấy là còn sanh diệt. Cái Tự Tánh của ông mà ông chẳng thấy, sao dám khinh dễ người?" 

Thần Hội lạy và ăn năn xin lỗi

Sư nói: "Nếu ông vì tâm mê, chẳng thấy tánh mình, thì hỏi bực Thiện Tri Thứctìm đường Chánh Giác. Còn nếu như ông tỏ sáng, tự thấy tánh mình, thì y theo pháp mà tu hành. Ông tự mê, chẳng thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy. Ta thấy, ta tự biết, há thế được cái mê của ông hay sao? Còn nếu ông tự thấy, cũng chẳng thế cái mê của ta được. Sao chẳng tự biết tự thấy, lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy?" 

Thần Hội làm lễ một lần nữa, lạy Tổ Sư hơn một trăm lạy, xin tha tội lỗi, lại cần mẫn theo hầu hạ Ngài chẳng rời. 

Một ngày kia, Sư bảo đồ chúng rằng: "Ta có một vật không đầu không đuôi, không tên không chữ, không mặt không trái, các ông biết chăng?" 

Thần Hội bước ra bạch rằng: "Ấy là cái Bổn Nguyên của Chư Phật, là cái Phật Tánh của Thần Hội." 

Sư nói: "Ta đã nói với ông "Vật không tên, không chữ", ông lại kêu là Bổn Nguyên, là Phật Tánh! Ông dầu có bước tới đường chánh, thì cũng như người lấy tranh mà che đầu (không biết cái nào quý hơn cái nào, như người lấy bức tranh quý mà che đầu lúc trời mưa làm hỏng cả- ngạn ngữ Trung Hoa -ndm), chỉ trở thành người tông đồ hiểu biết (Phật Pháp-nd) mà thôi." 

Sau khi Tổ Sư tịch rồi, Thần Hội vào thành Lạc Dương, mở rộng môn Đốn Giáo Tào Khê, làm sách Hiển Tông Ký, truyền báthế gian rất thạnh hành. Người xưng là Hà Trạch Thiền Sư

---------------------------- 

Một khi Đại Sư thấy môn đồ các phái vấn nạn nhau, đều khởi lòng ác. Có nhiều người tụ tập dưới ghế Sư ngồi. 

động lòng thương mà bảo rằng: "Người học Đạo, thì cả thảy các niệm thiện niệm ác đều phải bỏ hết. Không có tên nào mà gọi được, cái tên ở nơi tánh mình. Cái tánh Không Hai (Không yêu, không ghét-nd), ấy gọi là Thật TánhDo nơi Thật Tánh mà lập ra cả thảy giáo môn. Vậy khi nghe nói pháp rồi, thì phải liền thấy tánh mình." 

Các người nghe nói, cả thảy đều làm lễ, xin thờ Đại Sư làm thầy. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10174)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12355)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15350)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11248)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12112)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12091)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10621)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12560)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12619)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15320)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12224)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11489)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14277)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19710)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24616)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant