Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Phẩm Hóa Thành Dụ

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10412)
07. Phẩm Hóa Thành Dụ

Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy

 

Sau khi đã thọ ký cho các vị thượng căn bậc trung như Ngài Đại Ca Diếp, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Chiên DiênTu Bồ Đề. Để cho hàng thượng căn bậc hạ được phát khởi lòng tin vào nơi Phật đạo, và để đối trị những kẻ tăng thượng mạn hoặc do thiền định hoặc do tu pháp Tứ Đế mà đặng quả vị Thanh văn, vọng chấp cho đó là rốt ráo, nên Phẩm Hóa Thành Dụ được thiết lập.

Hơn nữa trên con đường “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” lữ khách đã cảm thấy mệt mỏi. Đây là quán trọn bên đường mọi người hãy dừng chân tạm nghỉ để rồi tiếp tục cuộc hành trình.

Hóa Thành Dụ được thiết lập ngay sau khi thọ ký cho bốn vị đại đệ tử, để cho hàng hạ căn được thấm nhuần mưa pháp mà bước vào Phật đạo.

“Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các hàng Tỳ kheo: Thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghị a tăng kỳ kiếp đã qua, lúc bấy giờ có Đức Phật hiệu Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri... Phật Thế Tôn. Nước đó tên Hảo Thành, kiếp tên Đại Tướng. Các Tỳ kheo! Từ khi Đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất lâu xa, thí như địa chủng trong cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người đem mài làm mực rồi đi qua khỏi một nghìn cõi nước ở phương Đông, bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một nghìn cõi nước nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lần lữa chấm hết mực mài bằng địa chủng trên, ý các ngươi nghĩ sao?

Thưa Thế Tôn! Không thể biết?

Các Tỳ kheo! Những cõi nước đi qua hoặc có chấm mực hoặc không chấm mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hạt bụi là một kiếp. Từ Đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức a tăng kỳ kiếp”.

Điều đó cho chúng ta thấy rõ rằng Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai là chỉ cho “pháp thân thường trú” chỉ cho “giác tánh thường tri” hay nói đúng hơn là chỉ cho “tâm thể” của chúng sinh.

Tâm thể ấy viên dung tự tại vô thỉ vô chung, không thể dùng vọng thức mà suy lường được.

Đại Thông là cái biết toàn tri,

Trí Thắng là trí tuệ sáng soi.

Chính “bản tâm” diệu dụng, trí tuệ tuyệt vời mới dung nhiếp được không gianthời gian, nên mới thấu rõ việc xưa và nay vẫn hiển bày trước mặt. Do vậy mà phẩm kinh đã ghi: “Ta dùng sức tri kiến Như Lai xem thuở lâu xa đó dường như hiện ngày nay”.

Trí tuệ Phật thẳm sâu như vậy, nhưng muốn đạt được trí tuệ ấy phải điều phục được tứ ma như: phiền não ma, ngũ ấm ma, tử mathiên ma. Cho nên Đức Thế Tôn đã dạy bảo các Tỳ kheo: “Đức Đại Thông Trí Thắng sống lâu 500 bốn mươi vạn ức na do tha kiếp, Đức Phật đó khi trước ngồi đạo tràng phá qân ma rồi, sắp đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giácPhật pháp chẳng hiện ra trước. Chư thiên cúng dường mãn 10 tiểu kiếp. Các Tỳ kheo! Đức Đại Thông Trí Thắng Phật quá 10 tiểu kiếp Phật pháp mới hiện ra trước thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Như vậy, Phật pháp chỉ hiện ra khi nào chúng ta vượt qua cái “bất động”.

Chính quan niệm an trụ nơi đạo tràng phá dẹp binh ma thân tâm an định là bức tường ngăn ngại cho pháp Phật hiện ra.

Xưa kiamẹ con của một lão bà cất một am nhỏ, hằng ngày lo vật dụng cúng dường cho một vị Thiền sư tu niệm. Một hôm bà lão bảo con gái nhân lúc rảnh rỗi thiền thất vắng vẻ con hãy ôm vị Thiền sư mà hỏi: Lúc này thế nào? Nếu vị ấy trả lời ra sao con hãy thuật lại cho ta rõ.

Cô gái thực hiện đúng như lời mẹ dặn, ôm vị Thiền sư vào lòng mà hỏi như thế.

Vị Thiền sư trả lời: “Ta giống như loài cây dương xỉ sống gởi trên gộp đá, nhưng gộp đá ấy đã khô rồi”.

Lão bà được nghe cô gái kể lại ý chỉ của Thiền sư. Hôm sau lão bà cùng cô gái đốt am mời vị Thiền sư đi nơi khác.

Đốt am như thế là một sự kiện phi thường, để chỉ cho vị Thiền sư kia rõ là vẫn còn vọng chấp cho mình là thanh tịnh.

Đức Đại Thông Trí Thắng là ảnh tượng, tượng trưng cho “bản giác diệu minh” vô trụ vô chấp, vượt khỏi suy lường về “cái bất động” mà thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Lúc Phật chưa xuất gia có 16 người con trai, người con cả tên Trí Tích. Các người con đó đều có đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe phụ vương đặng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều bỏ đồ chơi báu của mình mà đến chỗ Phật”.

Như thế, cho chúng ta thấy rõ rằng, một khi chưa hồi tâm hướng thiện (chưa xuất gia) thì 16 cái đặc tính hay là “thập lục tâm” kia gồm có 8 nhẫn, 8 trí, ấy vẫn còn bị nổi trôi điên đảo. Hưởng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thô hèn mà tự cho là báu đẹp. Chỉ khi nào đại thành tâm phát khởi mới nhận ra rằng khách trần kia chỉ là cảnh huyễn hư.

“Ông nội là vua Chuyển Luân Thánh Vương cùng 100 vị đại thần và trăm nghìn muôn ức nhân dân khác đều vây quanh nhau theo đến đạo tràng, mọi người đều đến gần gũi Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường, tôn trọng, ngợi khen”. Với ý nghĩa “Chuẩn Luân Thánh Vương” là ảnh tượng, tượng trưng cho “tâm vương”, 16 vị vương tử cũng như tám muôn ức người tôi hầu đều tượng trưng cho “tâm sở”. Trong đó gồm có những loại chính yếu gọi là “vương tử”, loại phụ là “tôi hầu”. Một khi đã biết quay về với tâm, biết chiêm ngưỡng, thì lúc ấy mới nghe được tiếng nói huyền diệu của “chân tâm”.

Thế Tôn đại oai đức,

Vì muốn độ chúng sinh,

Trong vô lượng ức năm,

Bèn mới đặng thành Phật,

Các nguyện đã đầy đủ,

Lành thay điềm vô thượng,

Thế Tôn rất ít có,

Một phen ngồi mười kiếp,

Thân thể và tay chân,

Yên tịnh không hề động,

Tâm Phật thường lặng lẽ,

Chưa từng có tán loạn,

Trọn rốt ráo vắng bặt,

An trụ pháp vô lậu.

Phật tâm như thế, chân tánh của chúng sinh như thế “trụ” chỗ “vô trụ”. Nhìn lại chúng, tâm thường tán loạn, cảnh duyên thúc bách, ngự trị và phủ mờ chân trí. Suốt đời đắm nhiễm theo bóng sắc huyễn hư, không thấy thể bất sinh, bất diệt, từng niệm từng niệm, sinh diệt nối nhau, từ chỗ mù tối này đến nơi mù tối khác.

Chúng sinh thường đau khổ

Mà không thầy dẫn đường

Chẳng biết đạo dứt khổ,

Chẳng biết cầu giải thoát,

Đêm dài thêm nẻo ác,

Giảm tổn các chúng trời,

Từ tối vào nơi tối,

Trọn chẳng nghe danh Phật.

Đúng là chúng ta thiếu duyên lành, đã không phát khởi thiện tâm mà còn sống trong cảnh hung dữ bạo tàn.

Chúng ta sống thiếu đức từ binhẫn nhục. Chúng ta thường nói đạo Phậtđạo từ bi. Nhưng chính chúng ta đã dùng xương thịt máu huyết của chúng sinh để tô điểm cho mạng sống của mình. Biết mạng sống của muôn loài như ta không khác, nhưng chúng ta đã nhẫn tâm giết chúng để ăn. Chúng ta muốn được an ổn trong nhà, vợ con sum họp mà lại giết thú vật, buộc chúng tách rời đàn lũ để đem xương thịt cúng lễ cho thánh thần. Lại từ vọng thức mê muội cho rằng “vật dưỡng nhân”. Dùng mồi ngon lừa gạt chúng rồi nhẫn tâm sát hại. Có lẽ chúng ta vì mê mờ tánh giác mới không thấy được những hành động phát xuất từ vọng thức mê lầm đó.

“Bấy giờ 16 vị vương tử nói kệ khen Đức Phật, rồi liền khuyến thỉnh Đức Thế Tôn chuyển pháp luân, đều thưa rằng : Đức Thế Tôn nói Pháp được an ổn, thông suốt làm lợi ích cho các trời và nhân dân”.

Chỉ khi nào chuyển bỏ tâm tà theo chính, lúc đó mới mong hưởng được phước báu nhân thiên.

Đến đây Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: “Lúc Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đặng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong mười phương, mỗi phương đều 500 muôn ức cõi nước sáu điệu vang động. Trong các cõi nước đó chỗ tối tăm ánh sáng của nhật nguyệt không soi đến đặng mà đều sáng rực, trong đó chúng sinh đều đặng thấy nhau. Từ Đông Phương 500 muôn ức cõi nước sáng chói, các vị Phạm Vương mỗi vị đều mang các thứ hoa trời suy tìm tướng sáng mà đến chỗ đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai.

Từ phương Đông Nam, phương Nam, Thượng phương, Hạ phương... các vị Phạm Vương cũng đều đi đến như thế”.

Tại sao Đức Phật thành đạohào quang chiếu tỏa như thế? Hào quang đó nói lên ý nghĩa gì? Đức Đại Thông Trí Thắng cách xa vô lượng vô biên kiếp.

Như thế ý chỉ trong kinh muốn chỉ rõ cho chúng ta thấy “Phật pháp thân” mỗi chúng sinh đều có Phật tánh. Nhưng Phật tánh ấy chưa được hiển bày diệu dụng. Chỉ khi nào tánh giác bừng lên thì sự diệu dụng sẽ”bất tư nghị”. Trong kinh Hoa Nghiêm cũng đã nói về”quyển kinh chứa trong hạt bụi”, đập hạt bụi ấy lấy quyển kinh ra, quyển kinh ấy trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới cũng ý chỉ này.

Ý chỉ ấy muốn nói về “pháp thân thường trú”, “bản giác thường hằng” không lệ thuộckhông gian, thời gian và cũng chỉ khi nào chúng ta hành trì thiện nghiệp đầy đủ túc duyên mới nhận chân được điểm này.

Tâm thiện ấy chỉ cho cảnh giới vi diệu của chư thiên. Hành vi tâm thiện liên tụckiên trì thì tánh sẽ chiếu tỏa sáng muôn nơi.

Do vậy khi ta còn mê thì còn bị cảnh huyễn hư trói buộc. Khi phá trừ mê hoặc thì không bị vọng thức đảo điên đánh lừa. Sự tự giác ấy sẽ chiếu tỏa muôn phương.

Tuy nhiên, sự tu tập cần phải chí tâm mong cầu, chí tâm quy ngưỡngvà tìm bậc minh sư chỉ giáo. Lúc ấy cơ duyên đã đến, các Ngài sẽ tùy thuận thuyết pháp. Pháp được thuyết ra mới mang lại lợi ích thiết thực đối với tự thân ta. Chính vì có cơ duyên cầu thỉnh, các Ngài mới theo cơ duyên ấy trao quyền. Với ý nghĩa đó mà trong mười phương, các vị Phạm Vương đều đến thưa thỉnh.

“Lúc bấy giờ Đức Đại Thông Trí Thắng nhận lời cầu thỉnh của các vị Phạm Thiên và 16 vị vương tử, tức thời ba phen chuyển 12 hành pháp luân, hoặc Sa môn, Bà la môn, hoặc trời, Ma, Phạm, và tất cả thế gian đều không thể chuyển được”.

Chuyển pháp luân và quay bánh xe pháp theo chu trình Thị chuyển, Chứng khuyển và Khuyến chuyển.

- Về Thị chuyển, Ngài đã ân cần thuyết:

Đây là khổ

Đây là tập

Đây là diệt

Đây là đạo.

- Về Chứng chuyển Ngài đã thuyết:

Đây là khổ ta đã biết.

Đây là tập ta đã đoạn.

Đây là diệt ta đã chứng.

Đây là đạo ta đã tu.

- Về Khuyến chuyển:

Đây là khổ chư vị nên biết.

Đây là tập chư vị nên đoạn.

Đây là diệt chư vị nên chứng.

Đây là đạo chư vị nên tu.

Pháp Tứ Đế này rất vi diệu, nếu ai biết nghe và hành trì lời dạy của Đức Như Lai không hư dối. Sở dĩ chúng ta hiện nay năng thuyết nhưng lại không năng hành. Do đó sự thuyết ấy thiếu cụ thể nên đôi khi mâu thuẫn với lời thuyết của chính mình. Hơn thế nữa, người thuyết lại chẳng bao giờ ở vào vị thế của người nghe thuyết.

Ví dụ: người thuyết khuyên người khác đừng khởi niệm khi gặp sự việc bất ưng ý hay ưng ý, phải luôn luôn giữ tâm như nhất. Phát khởi tâm đại từ đại bitùy thuận với mọi loài, mọi cảnh. Nhưng rồi suốt cuộc đời trong mọi cử chỉ, mọi hành động đều đắm mê tham nhiễm. Nếu có đem kinh điển của nhà Phật để thuyết cho mọi người nghe thì dùng những danh từ hoa mỹ, dùng nhiều điển tích chương cú làm bằng. Sống trong cảnh nhàn du sung sướng, hằng ngày vùi đầu trong sách vở bảo người khác tu trong cảnh chướng duyên, không đặt mình vào hoàn cảnh của người. Những kẻ ấy không sớm thì muộn cũng bị lục trần phủ lấp. Viết sách báo khen pháp này hay pháp kia diệu, nhưng những sáo ngữ ấy làm gì chở nổi lục trần. Suốt ngày dật dờ theo cảnh, nói ra toàn chuyện mây mưa, người nghe cho rằng cao diệu, loại ấy không hiếm trong cõi đời này.

Đến đây Đức Đại Thông Trí Thắng lại thuyết về Thập nhị nhân duyên: “Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyện lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi, khổ não. Vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sinh diệt, sinh diệt thời lão tử ưu bi, khổ não diệt”.

Đức Phật thuyết mười hai nhân duyên, nếu ta vô minh thì nó sẽ kéo theo mười hai chi, liên miên không cùng tận, trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai.

Nếu vô minh được phóng thể thì tất cả được giải trừ, tự thân ta được an nhiên tự tại. Cho rằng vô minh thuộc về quá khứ, nên bây giờ ta phải dứt ái, thủ, hữu ... chính quan niệm đó là vô minh. Vô minh ấy ở ngay hiện tại, hiện tiền, nếu không nhận thức được thì làm gì không trôi lăn trong tam giới.

Chư Tổ Đức từ xưa đến nay vẫn chỉ cho muôn loài dùng trí tuệ để quét phá vô minh đang mù tỏa trong từng niệm của chính mình. Tự thân hãy thắp cho mình ngọn tuệ đăng để chiếu tỏa. Hãy truyền trao cho mọi người cách phá trừ vô minh, ngay niệm khởi từ thấp đến cao.

Từ thấp là khi ứng tiếp khách trần, thức tâm liền sinh khởi kịp nhận ngay để giải trừ niệm khởi ấy.

Đến cao là trong mỗi sự việc đều rỗng rang tự tại, đều dung thông, tùy thuận, sáng soi.

Hằng ngày trong những thời khóa tụng ở chốn thiền môn đều có bài tụng Bát Nhã, đó là ý chỉ của người xưa muốn nhắc ta dùng trí tuệ ấy để pháp vô minh.

“Đức Phật ở trong đại chúng trời, người, khi nói pháp đó có 600 muôn ức na do tha người. Do vì không thọ tất cả pháp nên với các lậu tâm được giải thoát, đều được thâm diệu thiền định ba món minh, sáu món thông, tám món giải thoát”.

Vì sao chẳng thọ tất cả pháp mà được vô lậu giải thoát? Vì lục căn chẳng thọ các pháp nên ái chẳng sinh. Ái chẳng sinh, do vậy không gì để thủ, không gì để thủ nên hữu chẳng sinh. Do đó không có sinh lão tử ưu bi khổ não, nên tự chứng được Hữu dư Niết bàn.

Thông thường chúng ta bị trói buộc bởi sự thấy nghe, hiểu biết, không tự chứng nghiệm và giải thoát. Sự thấy nghe, hiểu biết ấy nếu bị nhiễm chấp trước cảnh duyên mà sinh thọ ái... thì làm sao tránh được khỏi tử sinh. Nhưng nếu hằng niệm chúng ta rời sự cảm thọ và nhiễm chấp thì làm gì không giải thoát.

“Bấy giờ16 vị tử đều làm đồng tửxuất gia làm Sa di, các căn thông lợi, trí tuệ sáng suốt, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức Đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều bạch cùng Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Các vị Đại đức Thanh văn vô lượng nghìn muôn ức đây thành tựu xong, Đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con mà nói pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng con nghe xong đều đồng tu học. Thế Tôn! Chúng con chỉ mong được tri kiến Như Lai, chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm Đức Phật tự chứng biết cho”.

“Lúc đó tám muôn ức người trong chúng tủy tùng Chuyển Luân Thánh Vương đều đến, thấy 16 vị vương tử xuất gia, cũng tự cầu xin xuất gia, vua liền thuận cho”.

Như vậy đủ cho chúng ta nhận rõ rằng: muốn đạt thành tri kiến Như Lai thì trước hết phải dứt trừ tham nhiễm, dứt bỏ mọi sự đối đãi tương phân, nên gọi là “xuất gia làm Sa di”. Vì Sa di cũng gọi là hành từ, lại có tên là “cầu tịch” nghĩa là xuất ra khỏi triền phược chí cầu pháp Niết bàn phải luôn luôn hành trì tương ứng với tánh lý.

Sự thức tỉnh quay về với “chân tâm huyền diệu” phải trải qua một thời gian lâu xa để đạt dần đến chỗ vô phân biệt niệm, đúng thời đúng lúc mới nghe được “Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa” mà trong kinh đã viện dẫn.

“Bây giờ Đức Phật nhận lời thỉnh của Sa di, qua hai muôn kiếp sau mới ở hàng bốn chúng nói kinh Đại thừa tên “Diệu Pháp Liên Hoa giáo Bồ Tát pháp Phật sở hộ niệm”. Đức Phật nói kinh đó xong, 16 vị Sa di vì đạo Vô thường Chánh đẳng Chánh giác đều thọ trì đọc tụng thông thuộc. Lúc nói kinh đó 16 vị Sa di Bồ Tát thảy đều tin thọ, trong chúng Thanh văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra nghìn muôn ức loại chúng sinh đều sinh lòng nghi ngờ. Phật nói kinh đó suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói kinh đó xong liền vô tịnh thất trụ trong thiền định 8 muôn 4 nghìn kiếp”.

Điều đó cho chúng ta thấy rằng Sa di thì tin thọ, hàng Thanh văn thì tín giải, hàng Bồ Tát thì đốn ngộ, từ thấp đến cao nếu đạt pháp ấy mà hành trì thì sẽ đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên trong kinh đã viện dẫn.

“Bây giờ 16 vị Bồ Tát Sa di biết Phật nhập thất trụ trong thiền định vắng bặt, mỗi vị đều lên tháp tòa cũng trong 8 muôn nghìn kiếp vì bốn bộ chúng rộng phân biệt nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.

Với ý nghĩa “thập lục tâm” đã chuyển thành diệu dụng không còn sai quấy, nên tánh nết đã hoán cải theo chiều hướng giải thoát giác ngộ. Mọi sự, mọi việc qua lời nói, cử chỉ đều hợp lý tánh, đó là những bài thuyết pháp sống động nhất Lời nói, cử chỉ hành động phù hợp với lý tánh, không còn bị 8 vạn ngàn trần lao quấy nhiễu.

Và chính như thế 16 vị vương tử kia đã thành Phật. Nghĩa là thập lục tâm đã chuyển thành những đức tính tùy duyên diệu dụng. Những đức tính ấy là vô động, bất động nên có danh xưng là Phật A Súc.

- Vi diệu tối thượng nên có danh xưng là Tu Di Đảnh.

- Luôn luôn dùng chánh ngữ để tuyên bày, nên có danh xưng là Sư Tử Âm.

- Thực hiện đúng với chánh nghiệp, danh xưng Sư Tử Tướng.

- Chánh định, danh xưng là Hư Không Trụ.

- Tịch tĩnh, danh xưng Thường Diệt.

- Thiện pháp, danh xưng là Đế Tướng, Phạm Tướng.

- Vô lượng quang, Vô lượng thọ, danh xưng là A Di Đà.

- Đại từ, đại bi, danh xưng là Đệ Nhất Thế Gian Khổ.

- Thanh tịnh, danh xưng là Đa Ma La.

- Tuyệt đối vi diệu, danh xưng là Tu Di Tướng.

- Thông đạt vô ngại tự tại, danh xưng là Vân Tự Tại.

- Làm chủ được sự tự tại, danh xưng Vân Tự Tại Vương.

- Phá trừ tất cả sự bố ủy, danh xưng Hoại Nhất Thiết Thế Gian.

- Thương mọi loài, danh xưng Thích Ca Mâu Ni.

- Vì “tri kiến Như Lai” khó tin khó hiểu. Do vậy, Đức Thế Tôn đã dùng phương tiện tiến sâu vào tánh chúng sinh, biết chí nó ưa pháp nhỏ, rất ham năm món dục, vì hạng người này mà nó Niết bàn, người đó nếu nghe thời liền tin nhận.

Con đường tiến đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khá vi diệu, sợ người sinh tâm chán nên Phật phương tiện nói có hai thứ Niết bàn, để chừng mực tiến sâu vào lý đạo Nhất thừa.

“Thí như đường hiểm nghèo nạn dữ dài 500 do tuần, chốn ghê sợ mênh mông, hoang vắng tuyệt không người. Nếu có chúng đồng muốn đi qua con đường này đến chỗ trân bảo, có một vị đạothông minh sáng suốt khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhân muốn vượt qua nạn đó. Chúng nhân được dắt đi giữa đường lười mỏi bạch đạo sư rằng: chúng con mệt nhọc, lại thêm sợ sệt chẳng có thể đi nữa, đường trước còn xa nay muốn lui về. Vị đạo sư nhiều chước phương tiện nên khởi nghĩ rằng: bọn này đáng thương, tại sao cam bỏ trân bảo lớn mà lui về. Nghĩ thế rồi dùng trí phương tiện ở giữa đường hiểm quá 300 do tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng nhân rằng: các ngươi chớ sợ, đừng lùi về, nay thành lớn nàycó thể dùng ở trong đó muốn làm gì thì làm. Nếu vào thành này sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại thẳng tiến đến chỗ châu báu cũng được. Bấy giờ chúng nhân mệt mõi rất vui mừng khen chưa từng có. Chúng ta hôm nay khỏi đường dữ này rất sung sướng được an ổn. Thế rồi chúng nhân thẳng vào văn hóa thành, sinh tưởng là diệt độ, sinh tưởng đã yên ổn Lúc ấy đạo sự biết chúng nhân đã được nghỉ ngơi không còn mệt mõi, liền diệt hóa thành, bảo chúng nhân rằng: các ngươi nên đi tới chỗ châu báugần đây, thành lớn đó trước là của ta biến hóaa ra để nghỉ ngơi thôi”.

“Các Tỳ kheo! Đức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ngươi mà làm vị đại đạo sư, biết các đường dữ sinh tử, phiền não, hiểm nạn dài xa nên bỏ, nên vượt qua. Nếu chúng sinh chỉ nghe một Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn ần gũi, mà nghĩ thế này: đạo Phật dài xa, lâu ngày chịu cần khổ mới có thể đặng thành Phật, biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệtdùng sức phương tiện ở giữa đường vì để nghỉ ngơi nên nói hai thứ Niết bàn.

Nếu chúng sinh trụ nơi hai bậc, Đức Như Lai lúc bấy giờ liền bèn nói: chỗ tu của các người tu chưa xong, bậc các ngươi ở gần tuệ của Phật, phải quán xét suy lường, Niết bàn đã đặng đó chẳng phải là thật vậy”.

Như vậy sự thấy lầm và nghĩ lầm kia vô cùng nguy hiểm. Chính vì mê mờ tánh giác hay hoang vắng không người mà bản tâm bị phụ mờ, từ đó vọng tâm dấy khởi. Với sự thấy lầm và nghĩ lầm ấy mà có thiện ácbất động nghiệp, và có phân đoạn sinh tử khổ. Nếu đã rời được phân đoạn sinh tử, như vi tế vô minh còn đó, mà không tránh khỏi biến dịch sinh tử khổ.

Do vậy với kiến hoặc, tư hoặc ở trong ba cõitrần sa hoặc cùng vô minh hoặc của hàng Nhị thừacon đường hiểm mới dài đến 500 do tuần (nghĩa là dụ cho thiện ác, bất động nghiệp, phân đoạn sinh tửbiến dịch sinh tử, đó là 500 do tuần).

Bậc đạo sư đã khéo dụng phương tiện theo thứ lớp để trừ bỏ phân đoạn sinh tửbiến dịch sinh tử mà lập nên Thánh quả, tạo ra cảnh Niết bàn hay hóa ra thành giả đ chúng nhân nghỉ ngơi. Đến lúc này hạt giống vô lậu giải thoát đã đến thời đơm hoa kết trái, Đức Thế Tôn nói pháp Đại thừa.

Sự tự giác đã chiếu tỏa từ hành động, cử chỉ, ngôn ngữ, biến thành những pháp vi diệu làm phương tiện cho muôn loài tỉnh giác. Đó là điểm thiết yếu của bậc đạo sư muốn tuyên bày trong phẩm Hóa Thành Dụ này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29898)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23612)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18990)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24769)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30978)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23993)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26525)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21325)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38139)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18805)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19984)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23890)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22818)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22925)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18713)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15849)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18864)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19686)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19957)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18128)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22946)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34171)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16921)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39261)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26082)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29149)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22905)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30968)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21013)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23331)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19823)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24686)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20228)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23904)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant