Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11. Phẩm Hiện Bảo Tháp

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10253)
11. Phẩm Hiện Bảo Tháp

Phẩm Hiện Bảo Tháp Thứ Mười Một

 

Đây là phẩm kinh được viện dẫn từ Phẩm Phương Tiện. Vì tâm địa của chúng sinh vô minh phiền não phủ mờ, nên tính nhiệm mầu của Như Lai tạng không do đâu hiển hiện sáng soi từ những Phẩm trên Đức Thế Tôn đã bi nhẫn khai thị chỉ rõ về “lý đạo Nhất thừa”. Cho đến Phẩm Pháp Sư lại càng rõ hơn nữa về cái “chân lý tối hậu” vốn tự thể của chúng sinh đã đầy đủ.

- Không một pháp nào không phải là pháp Phật.

- Không một chúng sinh nào không có “Tri kiến Như Lai”.

- Không một chúng sinh nào không có “Phật pháp thân”.

Phẩm Hiện Bảo Tháp đã minh chứng rõ ràng về “tính thể nhiệm mầu của Như Lai tạng”, phi hữu, phi không, hiển hiện muôn đức trang nghiêm, không không chẳng ngại mà hữu hữu vô cùng. Điều đó đã chứng minh được rằng Pháp tánh, Phật tánh, cũng không ngoài tâm tánh.

- Pháp tánh chỉ cho ta Đa Bảo.

- Tâm tánh chỉ cho Như Lai tạng tâm hay nói cách khác là đất tâm vậy.

- Tính thể nhiệm mầu của Như Lai tạng tâm gồm cả Pháp tánhPhật tánh vậy.

“Lúc bấy giờ trước Phật có tháp bằng bảy báu cao 500 do tuần, ngang rộng 250 do tuần, từ dưới đất nổi lên trụ giữa hư không.

Các món báu vật trau dồi năm nghìn bao lơn, nghìn muôn phòng nhà, vô số tràng phan để nghiêm sức đó. Chuỗi ngọc báu rũ xuống, muôn nghìa linh báu treo trên tháp, bốn mặt đều thoảng đưa mùi hương gỗ ly cấu chiên đàn khắp cùng cõi nước.

Các phan lọng đều dùng bảy thức báu vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu và mai khôi hiệp thành cao đến ngang cung trời Tứ Thiên Vương”.

Như thế tháp bảy báu ấy là ảnh tượng, tượng trưng cho thân thất đại đã chuyển thành thất bảo.

Thất bảo thân này có được khi chúng ta thoát khỏi vòng nhiễm chấp. Thấy các pháp tự tánh là không. Không còn nằm trong ngũ thú, nên gọi là cao vọt 500 do tuần.

- Liễu được “ thể tính chân thường” của 25 cõi gọi là “ngang rộng 250 do tuần”.

- Từ tính thể nhiệm mầu của Như Lai tạng tâmhiển bày, nương vào chân không thật tướng mà an trụ, nên gọi là “từ dưới đấy nổi lên trụ giữa hư không”.

- Dùng năm lực: tin, tấn, niệm, định, huệ tự trang nghiêm, nên gọi là “các món báu vật trau dồi nghìn lan can”. 

- Dùng thiền định làm “phòng nhà”.

- Trí đức làm “vô số tràng phan nghiêm sức”.

- Dùng tam niệm trụ (tin Phật, chẳng tin Phật, tin hoặc chẳng tin, không hề khởi động) làm “chuỗi ngọc báu rũ xuống”.

- Dùng bốn biện tài (pháp, nghĩa, từ, lạc thuyết vô ngại biện) làm “muôn nghìn linh báu treo trên tháp”.

- Dùng Tứ nhiếp Pháp, thất thánh tàihóa độ chúng sinh thoát ly, tứ sinh (noãn, thai, thấp, hóa sinh) cùng các cõi, nên gọi là “bốn mặt đều thoảng đưa mùi hương gỗ ly cấu chiên đàn”.

Các phan lọng dùng bảy thứ báu hiệp thành cao đến ngang cung trời Tứ thiên vương vây (bốn mặt dụ ch từ nhiếp pháp, bảy báu dụ thất thánh tài, cung trời Tứ thiên vương dụ thoát ly tứ sinh).

“Bấy giờ trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen rằng : Hay thay! Hay thay! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, năng dùng bình đẳng đại huệđại chúng nói kinh giáo Bồ Tát pháp Phật sở hộ niệm Diệu Pháp Liên Hoa. Đúng thế ! Đúng thế ! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, như lời Phật nói đó đều chân thật”.

Chân tâm chứa đựng hằng sa công đức nên gọi là Đa Bảo.

Tiếng nói huyền diệu của chân tâm vọng về : Hay hay! Hay hay ! Khi đã nghe Đức Thế Tôn phương tiện thuyết để hiển bày chân thật tướng nên đã lập lại hai lần.

Hay thay lần thứ nhất là nghe pháp vi diệu.

Hay thay lần thứ hai là nhờ đó mà thấy được “nhất chân thật tướng pháp giới” hay thấy được “tự tánh nhiệm mầu”.

Và cũng vì chánh pháp vi diệuĐức Thế Tôn đã thuyết đều đúng như vậy. Nghĩa là phương tiện như thế, thật là chân thật tối diệu vậy.

“Bấy giờ bốn bộ chung thấy Đa Bảo tháp trụ trong hư không, lại nghe trong tháp vang tiếng nói ra, đều đặng pháp hỷ, lấy làm lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chấp tay rồi đứng một bên, lúc đó có vị đại Bồ Tát tên Đại Nhạo Thuyết biết lòng nghi của tất cả Trời, Người, A tu la trong thế gianbạch Phật rằng: “Do nhân duyên gì mà có tháp này từ đất nổi lên, lại ở trong tháp vang ra tiếng như thế?”.

Nhận được rằng: chân tâm vốn có hằng sa công đức, có tiếng nói huyền diệu vọng về.

Chân lý tối hậu ấy chưa từng bao giờ nghiệm được. Hôm nay Đức Thế Tôn đã khai thị, chúng hội lòng vui khôn xiết. Nhưng vẫn còn lấy làm lạ lắm. Vừa kinh nghi sợ sệt, vừa vui mừng đón nhận, không biết có thật tự tánh nhiệm mầu không? Nên Ngài Đại Nhạo Thuyết biết chỗ nghi ấy mà thưa thỉnh để Đức Thế Tôn giải nghi cho chúng hội.

“Lúc đó Phật bảo Ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát : trong tháp báu này có toàn thân Như Lai. Thời quá khứ về trước cách đây vô lượng nghìn muôn ức vô số cõi nước phương Đông, có nước tên Bảo Tịnh, trong nước đó có Phật hiệu Đa Bảo. Đức Phật đó tu hành đạo Bồ Tát phát lời thệ nguyện lớn rằng: nếu ta được thành Phật, sau khi diệt độ trong cõi nước mười phương có chỗ nào nói kinh Pháp Hoa thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứng minh khen rằng: Hay thay!”.

Công đức quý báu bất khả tư nghị đó là tháp bảo. Tháp bảo ấy lại có toàn thân của Như Lai Đa Bảo, hay đúng hơn là có “Pháp thân Phật” và chỉ khi nào “Diệu Pháp Liên Hoa” được thuyết ra thì “Pháp thân” kia được hiển lộ. Điều đó còn gì vi diệu hơn, nên dùng danh ngôn “hay thay” một phương chứng vậy.

“Bấy giờ Ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát do sức thần của Đức Như Lai mà bạc Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện muốn thấy thân của Đức Phật đó”.

Hội chúng muốn thấy thân của Đức Đa Bảo, nghĩa là muốn thấy “Phật pháp thân”. Điều này vô cùng huyền diệu.

Do đó, Đức Thế Tôn bảo Ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát rằng: “Phật Đa Bảo có nguyện sâu nặng, nếu lúc tháp bảo của ta vì nghi kinh Pháp Hoahiện ra nơi trước các Đức Phật. Có Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, thời các vị Phật của Phật đó phân thân ra nói pháp ở các cõi nước trong mười phương đều phải nhóm họp cả một chỗ, vậy sau thân ta mới hiện ra”.

Huyền diệu ở chỗ là mỗi hành vi, mỗi cử chỉ, mỗi sự việc đều diệu dụng từ trí tuệ sáng soi. Tất cả công đức của từ bi hỷ xả vô lượng vô biên trong từng niệm, và niệm niệm cùng khắp, không phải là niệm mê, đều ở cái thể an nhiên tự tại.

Thể an nhiên tự tại ấy là chỗ nhóm họp của các pháp vi diệu.

Nên kinh đã viện dẫn: “Phân thân Phật ở các cõi nước trong mười phương đều phải nhóm họp một chỗ”.

Chính bản tâm thường tịch (lặng) thường chiếu (sáng) ấy vừa dung thông vừa thâu nhiếp, đó là tháp Đa Bảo, đó là nơi Phật Đa Bảo an trụ, hiển bày.

Chỉ khi nào ánh sáng trí tuệ bừng mở mới không còn bị tương phân đối đãi, không còn bị phiền não cuốn lôi.

Chỉ có trí tuệ, tâm cảnh mới an địnhthanh tịnh. Do vậy mà phẩm kinh đã nêu:

“Bấy giờ Phật phóng một lằn sáng nơi lông trắng giữa chặn mày, liền thấy 500 muôn ức na do tha hằng hà sa cõi nước ở phương Đông. Các cõi nước đó đều dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu, làm đồ trang nghiêm, vô số nghìn muôn ức Bồ Tát đầy dẫy trong nước đó, khắp nơi giăng màn báu, vì chúng sinh mà nói pháp, phương Nam, Tây, Bắc, cũng lại như thế”.

- Luồng sáng ấy tượng trưng cho trí tuệ.

- Lông trắng giữa chặn mày tượng trưng cho không mắc kẹt ở tương phân đối đãi.

Như vậy tâm cảnh mới nhất như, nên gọi pha lê làm đất, cây báu, y báu, làm đồ trang nghiêm. Và từ đó muôn hạnh từ bi trùm khắp cõi nước, nên gọi là Bồ Tát khắp đầy, vì chúng sinh mà nói pháp.

“Lúc bấy giờ cõi Ta bà liền biến thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây để ngăn tám đường, không có các xóm làng, thôn dinh, thành ấp, sông lớn, sông nhỏ, biển cả, núi cùng rừng bụi... chỉ lưu lại chúng trong hội này, dời các trời người đi nơi khác”.

Một khi tâm đã an định, trí tuệ sáng soi thì uế trược phiền não được tẩy trừ nên “cõi Ta bà biến thanh tinh”.

Tâm niệm mong cầu phước báu nhân thiên không còn vướng chấp, nên gọi là “dời các hàng trời người để ở chỗ khác”.

Chúng hội đều nhận chân được “Tri kiến Như Lai” không đâu xa lạ mà chính ở tự thân mình.

Khi nhận chân được như thế, nhưng vẫn còn e ngại nên phải tự hỏi.

“Như Lai, Bồ Tát cùng Thanh văn ít bệnh, ít não, khí lực an vui đều an ổn chăng?” Nếu là ít bệnh, ít não thì mới mở tháp cho xem được, mới bắt đầu thấy “Phật pháp thân”.

Do đó, “Đức Thích Ca Mâu Ni liền từ chỗ ngồi đứng dậy trụ trên hư không, tất cả hàng bốn chúng đều đứng dậy, chắp tay một lòng nhìn Phật. Khi Đức Thích Ca Mâu Ni dùng ngón tay hữu mở cửa tháp báu, vang ra tiếng lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn”.

Đức Thế Tôn hiển thị “lý đạo Nhất thừa”, trụ ở chỗ vô trụ, tùy thuận chúng sinh để “khai quyền hiển thật”.

Mà trong phẩm kinh đã nêu là “từ chỗ ngồi đứng dậy, trụ trên hư không, dùng tay hữu mở cửa tháp báu”.

Khai quyền hiển thậttùy thuận chúng sinh cũng là một sự kiện như trời long đất lở. Thông nhiếp các căn cơ, đem về “lý đạo Nhất thừa” làm cho bao nhiêu nhiễm chấp đều đổ vỡ, đập phá vỏ cứng vô minh như tiếng vang dội của một thành lớn bị phá tan, mà đoạn kinh đã ghi : “mở cửa tháp bảy báu vang ra tiếng lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn” vậy.

Tức thời tất cả chúng hội đều thấy Đức Đa Bảo Như Lai, ở trong tháp báu ngồi tòa sư tử, toàn thân không rã như vào cảnh thiên định, lại nghe Phật đó nói: “Hay thay! Hay thay! Thích Ca Mâu Ni Phật sướng thích nói kinh Pháp Hoa đó, ta vì nghe kinh đó mà đến cõi này”.

Pháp thân Phật bất sinh bất diệt, hay nói “tánh thể nhất như” không nằm trong sự tương phân “sinh tử, Niết Bàn”. Chỉ có trí tuệ mới thấy được lòng bi mẫn của đấng Từ phụ đã hiển bày “lý tánh” qua kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một việc chưa từng tỏ ngộ một cách toàn triệt, thể nhập ở đó một cách toàn triệt. Ngày nay mới vỡ lẽ ra nên cho rằng đó là “việc chưa từng có”.

Đức Thế Tôn là đấng toàn giác luôn luôn thể nhậphiển hiện muôn pháp tối diệu.

- Thể nhập “lý tánh” thể hiện tương ứng với “lý tánh” dung thông tự tai, nên lúc đó Đức Đa Bảo Phật ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Đức Thích Ca Mâu Ni Phật mà nói rằng: “Thích Ca Mâu Ni Phật có thể ngồi trên nửa tòa này’.

- Sự lý viên dung, sự sự vô ngại, đó là cảnh giới bất tư nghị của “pháp giới tính nhiệm mầu” mà quả vị Phật mới đạt thành.

Do vậy, hội chúng đã liễu tri và mong cầu đạt thành như thế, nên đoạn kinh đã ghi:

“Bây giờ hàng đại chúng thấy hai Đức Như Lai ngồi xếp bằng trên tòa sư tử trong tháp báu thời đều nghĩ rằng: “Đức Phật ngồi trên cao xa cúi mong Đức Như Lai dùng sức thần thông làm cho bọn chúng con đều được ở trên hư không. Tức thời Đức Thích Ca Mâu Ni Phật dùng sức thần thông tiếp hàng đại chúng đều ở hư không”.

Đức Thế Tôn đã dùng “phương tiện trí” chỉ rõ các pháp tự tánh là không, để chúng sinh lìa nhiễm chấp tiến đến “lý đạo Nhất thừa”, đó gọi là sức thần thông đệ nhất. Chính thần thông ấy đã làm cho hội chúng thâm nhập “Tri kiến Như Lai” vậy.

Đó là “phương tiện diệu lực” của chúng sinh từ mê đến giác, đã chứa đựng một cách vi diệu trong phần trường của phẩm kinh.

Đến đây hội chúng đã liễu tri, một lần nữa Đức Thế Tôn đã ân cần dạy bảo:

Sau khi ta diệt độ,

Ai có thể hộ trì,

Đọc nói kinh pháp này,

Thời là đã cúng dường,

Thích Ca cùng Đa Bảo,

Thời ấy thấy Thích Ca,

Cùng Đa Bảo Như Lai,

Và các vị hóa Phật.

Nếu sau các Phật diệt,

Người ở trong đời ác,

Có thể nói kinh này,

Đây thời là rất khó.

Giả sử gặp kiếp thiêu,

Gánh mang những cỏ khô,

Vào lửa không bị cháy,

Cũng chưa lấy làm khó.

Sau khi ta diệt độ,

Nếu người từ kinh này,

Vì một người mà nói,

Đây thời mới là khó.

Hợac người từ tám muôn,

Bốn nghìn các pháp tạng,

Đủ mười hai bộ kinh,

Vì người mà diễn nói,

Khiến các người nghe pháp,

Đều đặn sáu thần thông,

Dầu được như thế đó,

Cũng chưa lấy làm khó,

Sau khi ta diệt độ,

Nghe lãnh kinh điển này,

Hỏi nghĩa thú trong kinh,

Đây thời mới là khó.

Hoặc có người nói Pháp,

Làm đến nghìn muôn ức,

Đến vô lượng vô số,

Hằng hà sa chúng sinh,

Chứng đặng quả La Hán,

Đủ sáu phép thần thông,

Dầu có lợi ích đó,

Cũng chưa phải là khó.

Sau khi ta diệt độ,

Nếu người hay phụng trì,

Những kinh điển như đây,

Đây thời là rất khó,

Ta vì hộ Phật đạo,

Ở trong vô lượng cõi,

Từ thuở trước đến nay,

Rộng nói nhiều các kinh,

Mà ở trong kinh đó,

Kinh này là bậc nhất

Nếu có người tạm trì,

Thời ta rất vui mừng

Các Đức Phật cũng thế,

Người nào được như vậy,

Các Đức Phật thường khen,

Đó là rất dõng mãnh,

Đó là rất tinh tấn,

Gọi là người trì giới,

Bậc tu hạnh đầu đà,

Thời chắc sẽ mau đặng

Quả vô thượng Phật đạo,

Sau khi ta diệt độ,

Có thể hiểu nghĩa này,

Thời là mắt sáng suốt,

Của trời người trong đời,

trong đời kinh sợ,

Hay nói trong chốc lát,

Tất cả hàng trời người,

Đều nên cúng dường đó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27187)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21779)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22243)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23622)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20435)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20059)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21952)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24769)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19013)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24788)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30996)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24007)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27781)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26546)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21358)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23243)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38164)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19998)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19059)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23187)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23899)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22830)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22939)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29602)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20653)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18729)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15854)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18870)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19698)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20171)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19964)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18134)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22977)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34200)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16438)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16938)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39278)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26106)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20117)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24078)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29162)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22913)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30981)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21024)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26874)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20689)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26274)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23348)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24698)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30053)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20421)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15162)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23923)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant