Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Kinh chiếc lưới ái ân

30 Tháng Chín 201100:00(Xem: 8818)
04. Kinh chiếc lưới ái ân

KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG

Thích Nhất Hạnh Việt dịch

Kinh chiếc lưới ái ân
Kinh Pháp Cú (Đ210) – Phẩm Ái Dục – Chương 32
Thầy Nhất Hạnh dịch sang việt ngữ

 

愛欲品法句經第三十二三十有二章
Ái dục phẩm Pháp Cú Kinh đệ tam thập nhị tam thập hữu nhị chương

愛欲品者。 賤婬恩愛世人為此盛生災害。
ái dục phẩm giả。 tiện dâm ân ái thế nhân vi thử thịnh sanh tai hại。


1.
心放在婬行 
欲愛增枝條
分布生熾盛 
超躍貪果猴

tâm phóng tại dâm hành
dục ái tăng chi điều
phân bố sanh sí thịnh
siêu dược tham quả hầu

Tâm ý đi về hướng ái dục thì cây ái dục sẽ đâm chồi trổ nhánh rất mau.
Tâm ý phân tán vì đối tượng ái dục sẽ làm cho lửa ái dục bừng cháy trong ta.
Kẻ đi tìm ái dục cũng giống như một con vượn chuyền cành tìm trái, từ cành này sang cành khác.

2.
以為愛忍苦 
貪欲著世間
憂患日夜長 
莚如蔓草生

dĩ vi ái nhẫn khổ
tham dục trước thế gian 
ưu hoạn nhật dạ trưởng
莚như mạn thảo sanh

Ái dục buộc mình phải gánh chịu khổ đau.
Ái dục làm cho mình bị vướng mắc vào cuộc sống trần tục.
Những lo lắnghoạn nạn do ái dục đưa tới cứ tăng trưởng đêm ngày, mọc kín như cỏ tranh.

3.
人為恩愛惑 
不能捨情欲
如是憂愛多 
潺潺盈于池

nhân vi ân ái hoặc
bất năng xả tình dục
như thị ưu ái đa
sàn sàn doanh vu trì

Bị ái ân mê hoặc người ta sớm muộn gì cũng sẽ bị vướng vào dục tình.
Cái lo lắng kia càng ngày càng lớn, giống như dòng nước rỉ, rỉ mãi cũng đầy hồ.

4.
夫所以憂悲 
世間苦非一
但為緣愛有 
離愛則無憂

phu sở dĩ ưu bi
thế gian khổ phi nhất
đãn vi duyên ái hữu
ly ái tức Vô ưu

Ở đời có nhiều thứ lo lắng và đau buồn,
nhưng không có thứ lo buồn nào lớn hơn cái lo buồn do ái dục đem lại.
Buông bỏ được ái dục mới hết lo buồn.

5.
己意安棄憂 
無愛何有世
不憂不染求 
不愛焉得安

kỷ ý an khí ưu
vô áihữu thế
bất ưu bất nhiễm cầu
bất ái yên đắc an

Muốn tâm ý được an vui thì phải quyết tâm dứt bỏ ái ân.
Không ân ái thì không còn phải đi vòng quanh trong cõi luân hồi,
không còn phải mang nặng ưu tư,
không còn thấp thỏm mong cầu những gì ô nhiễm.
Không còn ái nhiễm thì sẽ được thực sự an vui.

6.
有憂以死時 
為致親屬多
涉憂之長塗 
愛苦常墮危

hữu ưu dĩ tử thời
vi trí thân chúc đa
thiệp ưu trường đồ
ái khổ thường đọa nguy

Ân ái thâm trọng thì đến giờ lâm chung,
bao quanh bởi những người thân thuộc,
sẽ thấy con đường của lo lắngsầu khổ dài như thế nào.
Cái khổ do ân ái gây nên thường đưa ta tới những hoàn cảnh không an toàn, đầy tai ách.

7.
為道行者 
不與欲會 
先誅愛本

vi đạo hành giả
bất dữ dục hội
tiên tru ái bổn

無所植根 
勿如刈葦 
令心復生

vô sở thực căn
vật như ngải vi
lệnh tâm phục sanh

Là người tu đạo, ta không nên đi về hướng ái dục.
Phải bắt đầu bằng cách tìm diệt tận gốc cái cây ái dục
để cho những cái rễ của nó không còn có thể đâm chồi lên được.
Đừng làm như cắt cỏ lau, để sau khi được cắt rồi lau lại mọc lên như cũ.

8.
如樹根深固 
雖截猶復生
愛意不盡除 
輒當還受苦

như thọ căn thâm cố
tuy tiệt do phục sanh
ái ý bất tận trừ
triếp đương hoàn thọ khổ

Gốc cây ái dục sâu và vững.
Tuy cây đã bị đốn, nhưng cành lá vẫn có thể sinh ra trở lại.
Tâm ái dục chưa dứt trừ
thì theo lẽ thường cái khổ do ái dục đem tới vẫn còn trở lại như thường.

9.
猨猴得離樹 
得脫復趣樹
眾人亦如是 
出獄復入獄

猨hầu đắc ly thọ
đắc thoát phục thú thọ
chúng nhân diệc như thị
xuất ngục phục nhập ngục

Như con vượn nhảy ra khỏi cây này thì lại nhảy vào cây khác,
người đời cũng thế, ra khỏi được một ngục tù ái dục này rồi lại lao mình vào một ngục tù ái dục khác.

10.
貪意為常流 
習與憍慢并
思想猗婬欲 
自覆無所見

tham ý vi thường lưu
tập dữ kiêu mạn tinh
tư tưởng y dâm dục
tự phước vô sở kiến

Tâm ái dục là một dòng chảy thường xuôi theo dòng tập khí và dòng kiêu mạn.
Những tư duynhận thức của ta đều có thể được tô điểm theo màu sắc ái dục
và do đó chính mình tự che lấp sự thật và không thấy được sự thật.

11.
一切意流衍 
愛結如葛藤
唯慧分別見 
能斷意根原

nhất thiết ý lưu diễn
ái kết như cát đằng
duy tuệ phân biệt kiến
năng đoạn ý căn nguyên

Dòng suối tâm ý ấy cứ mặc tình trôi chảy
khiến cho những nút thắt ái dục đan kết lại với nhau chằng chịt.
Chỉ có tuệ giác chân thực mới có khả năng phân biệt và thấy rõ được đìều này
và giúp ta đoạn trừ được căn nguyên của nó nơi tâm ý.

12.
夫從愛潤澤 
思想為滋蔓
愛欲深無底 
老死是用增

phu tùng ái nhuận trạch
tư tưởng vi tư mạn
ái dục thâm vô để
lão tử thị dụng tăng

Dòng suối ái dục thấm vào tư duynhận thức để lớn mạnh và quấn vào nhau.
Nguồn suối ái dục sâu không đáy kia làm cho cái già và cái chết tăng trưởng một cách rất mau chóng.

13.
所生枝不絕 
但用食貪欲
養怨益丘塜 
愚人常汲汲

sở sanh chi bất tuyệt
đãn dụng thực tham dục
dưỡng oán ích khâu 塜 
ngu nhân thường cấp cấp

Những cành nhánh của cây ái dục cứ tiếp tục sinh trưởng không dừng nghĩ
cũng bởi vì chúng được nuôi dưỡng bằng thực phẩm ái dục.
Thực phẩm này nuôi dưỡng oán hận, un thành gò thành đống.
Người thiếu trí tuệ thì cứ nôn nóng đi về hướng ấy.

14.
雖獄有鉤鍱 
慧人不謂牢
愚見妻子息 
染著愛甚牢

tuy ngục hữu câu diệp
tuệ nhân bất vị lao
ngu kiến thê tử tức
nhiễm trước ái thậm lao

Trong ngục thất có gông có cùm,
nhưng người có trí tuệ không thấy những dụng cụ này là thứ gông cùm vững chắc nhất.
Cái loại gông cùm ái nhiễm cột người ta vào vòng hệ lụy mới thật là loại gông cùm kiên cố.

15.
慧說愛為獄 
深固難得出
是故當斷棄 
不視欲能安

tuệ thuyết ái vi ngục
thâm cố nan đắc xuất
thị cố đương đoạn khí
bất thị dục năng an

Người có trí tuệ thấy ái dục là một thứ ngục tù kiên cố, khó thoát ra khỏi.
Người ấy biết rõ rằng phải đoạn trừ ái dục thì mới thực sự được an vui.

16.
見色心迷惑 
不惟觀無常
愚以為美善 
安知其非真

kiến sắc tâm mê hoặc
bất duy quán vô thường
ngu dĩ vi mỹ thiện
an tri kỳ phi chân

Thấy sắc mà bị mê hoặc đó là vì không biết quán vô thường.
Kẻ u mê tưởng rằng cái sắc ấy là một cái gì lành và đẹp,
không biết rằng cái bóng dáng bên ngoài kia
không chứa đựng được một cái gì bền bỉ chắc thật bên trong nó.

17.
以婬樂自裹 
譬如蠶作繭
智者能斷棄 
不盻除眾苦

dĩ dâm lạc tự khoả
thí như tàm tác kiển
trí giả năng đoạn khí
bất hễ trừ chúng khổ

Tự nhốt mình trong sắc dục thì cũng như con tằm kéo chiếc kén để tự mình giam hãm lấy mình.
Bậc trí giả có khả năng đoạn trừ và buông bỏ dục tưởng,
không thiết tha gì đến những đối tượng ái dục,
cho nên mới tránh thoát khỏi mọi khổ nạn.

18.
心念放逸者 
見婬以為淨
恩愛意盛增 
從是造獄牢

tâm niệm phóng dật giả
kiến dâm dĩ vi tịnh
ân ái ý thịnh tăng
tùng thị tạo ngục lao

Kẻ có tâm ý phóng đãng khi nhìn vào một đối tượng ái dục thì có thể cho đó là một cái gì tinh khiết,
không biết rằng sự tăng trưởng lớn mạnh của ái ân sẽ đem tới bao nhiêu hệ lụy tù ngục sau này.

19.
覺意滅婬者 
常念欲不淨
從是出邪獄 
能斷老死患

giác ý diệt dâm giả
thường niệm dục bất tịnh
tùng thị xuất tà ngục
năng đoạn lão tử hoạn

Những ai thực tập chánh niệm sẽ có khả năng thấy được rằng cái đối tượng của ái dục kia là bất tịnh,
do đó diệt trừ được dục ý, ra khỏi ngục tù và thoát khỏi tai nạn già và chết.

20.
以欲網自蔽 
以愛蓋自覆
自恣縛於獄 
如魚入笱口
為老死所伺 
若犢求母乳

dĩ dục võng tự tế
dĩ ái cái tự phước
Tự Tứ phược ư ngục
như ngư nhập cú khẩu
vi lão tử sở tý
nhược độc cầu mẫu nhũ

21.
離欲滅愛迹 
出網無所弊

ly dục diệt ái tích
xuất võng vô sở tệ

Tự quấn lấy mình trong chiếc lưới ái dục,
tự che mình bằng chiếc dù ái dục là tự trói mình trong vòng hệ lụy
như con cá tự chui vào trong một chiếc nơm, bị cái già và cái chết bắt theo
và luẩn quẩn bên cạnh đối tượng ấy như một con bê đi tìm vú mẹ.
Lìa bỏ được dục, không đi theo vết xe của ái, thì có thể vượt thoát ra ngoài chiếc lưới ái ân,
không còn bị bất cứ một cái gì làm hại nữa.

22.
盡道除獄縛 
一切此彼解
已得度邊行 
是為大智士

tận đạo trừ ngục phược
nhất thiết thử bỉ giải
đắc độ biên hành
thị vi đại trí

Đi trọn được con đường, cởi bỏ được mọi ràng buộc hệ lụy,
giải phóng được mọi phân biệt kỳ thị, vượt qua được các ý niệm lưỡng nguyên,
đó mới thiệt là bậc xuất sĩ đại trí.

23.
勿親遠法人 
亦勿為愛染
不斷三世者 
會復墮邊行

vật thân viễn Pháp nhân
diệc vật vi ái nhiễm
bất đoạn tam thế giả
hội phục đọa biên hành

Đừng thân cận với những kẻ đi ngược chánh pháp
cũng đừng bị lôi kéo theo con đường ái nhiễm.
Nếu chưa vượt thoát được thời gian,
thì hành giả vẫn còn bị kẹt vào cái thấy nhị nguyên.

24.
若覺一切法 
能不著諸法
一切愛意解 
是為通聖意

nhược giác nhất thiết pháp
năng bất trước chư Pháp
nhất thiết ái ý giải
thị vi thông thánh ý

Thấy và hiểu được tự tánh các pháp,
không còn bị vướng vào một pháp nào,
biết cách gỡ ra được mọi sợi dây ái dục trong tâm ý,
như thế là đã nắm được ý chỉ của Bụt.

25.
眾施經施勝 
眾味道味勝
眾樂法樂勝 
愛盡勝眾苦

chúng thí Kinh thí thắng
chúng vị đạo vị thắng
chúng lạc Pháp lạc thắng
ái tận thắng chúng khổ

Trong các thứ hiến tặng, hiến tặng chánh pháp là quý hơn cả.
Trong các mùi hương, hương đạo đức là thơm tho hơn hết.
Trong các thứ hạnh phúc, được sống trong chánh pháphạnh phúc lớn nhất.
Không có phương pháp nào chiến thắng được khổ đau một cách tận cùng bằng sự thực tập chấm dứt ái dục.

26.
愚以貪自縛 
不求度彼岸
貪為敗處故 
害人亦自害

ngu dĩ tham tự phược
bất cầu độ bỉ ngạn
tham vi bại xử cố
hại nhân diệc tự hại

27.
愛欲意為田 
婬怨癡為種
故施度世者 
得福無有量

ái dục ý vi điền
dâm oán si vi chủng
cố thí độ thế giả
đắc phước vô hữu lượng

Người u mê thường lấy sợi dây tham dục để tự trói mình.
Người ấy chưa có ước mong vượt sang bờ bên kia.
Tham dục gây bại hoại, đem lại tai họa cho mình và cho kẻ khác.
Tâm tham dục là ruộng đất, tham sân sihạt giống.
Đối với người có khả năng bố thí và độ đời
thì những phúc đức thu hoạch được không thể đo lường.

28.
伴少而貨多 
商人怵惕懼
嗜欲賊害命 
故慧不貪欲

bạn thiểu nhi hóa đa
thương nhân truật dịch cụ
thị dục tặc hại mạng
cố tuệ bất tham dục

Người đồng hành thì ít, hàng hóa chuyên chở thì nhiều,
kẻ thương nhân lâm vào trạng thái lo lắng kinh sợ.
Biết rằng cái đam mê dục lạc là tên giặc có thể làm tổn hại thân mạng của mình,
bậc trí giả không còn chạy theo tham dục.

29.
心可則為欲 
何必獨五欲
違可絕五欲 
是乃為勇士

tâm khả tức vi dục
hà tất độc ngũ dục
vi khả tuyệt ngũ dục
thị nãi vi dũng sĩ

Năm thứ tham dục phát sinh khi tâm mình cảm thấy có sự khả ý.
Mau chóng chấm dứt được cả năm thứ tham dục, đó mới thật là người dũng sĩ.

30.
無欲無有畏 
恬惔無憂患
欲除使結解 
是為長出淵

vô dục vô hữu úy
điềm 惔Vô ưu hoạn
dục trừ sử kết giải
thị vi trường xuất uyên

Hết tham dục thì không còn sợ hãi.
Lúc ấy ta mới được thảnh thơi an lạc.
Dục hết thì kiết sử cũng hết, do đó hành giả ra khỏi được vực sâu.

31.
欲我知汝本 
意以思想生
我不思想汝 
則汝而不有

dục ngã tri nhữ bổn
ý dĩ tư tưởng sanh
ngã bất tư tưởng nhữ
tức nhữ nhi bất hữu

Này ái dục ta ơi, ta biết gốc gác của mi rồi:
Dục ý là từ ước muốn và nhận thức sai lầmphát khởi.
Nay ta không còn ước muốn và nhận thức sai lầm về mi thì làm sao mi còn có thể phát sinh?

32.
伐樹忽休 
樹生諸惡 
斷樹盡株
比丘滅度

phạt thọ hốt hưu
thọ sanh chư ác
đoạn thọ tận chu
Tỳ-kheo diệt độ

Đốn cây ái dục mà không tận gốc thì cây ái dục sẽ mọc trở lại.
Đốn cây ái dục mà tận gốc thì vị xuất sĩ đạt tới Niết Bàn.

33.
夫不伐樹 
少多餘親
心繫於此 
如犢求母

phu bất phạt thụ 
thiểu đa dư thân
tâm hệ ư thử
như độc cầu mẫu

Nếu không chịu chặt cây ái dục
thì cành lá ái dục ít nhiều vẫn còn phát sinh.
Tâm còn vướng vào ái dục
thì người ta vẫn còn như một con bê phải luôn luôn cần đến vú mẹ.

Xem thêm: Bài liên quan đến chủ đề

GIẢNG GIẢI KINH CHIẾC LƯỚI ÁI ÂN - Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31332)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26224)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27515)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27904)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26703)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31228)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20263)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22920)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30039)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21571)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20238)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22659)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20749)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30309)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28788)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34725)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44221)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35511)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22538)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21377)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20684)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24753)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37918)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19035)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19323)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21816)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20870)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29521)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35119)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28815)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32601)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26222)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28930)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43141)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34949)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43920)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37891)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21326)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49012)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39835)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53778)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36823)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40811)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49733)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47307)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27696)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27025)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24070)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20847)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34315)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22465)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25120)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25845)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22950)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22472)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21752)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23319)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21183)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant