Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Kinh chiếc lưới ái ân

30 Tháng Chín 201100:00(Xem: 8815)
04. Kinh chiếc lưới ái ân

KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG

Thích Nhất Hạnh Việt dịch

Kinh chiếc lưới ái ân
Kinh Pháp Cú (Đ210) – Phẩm Ái Dục – Chương 32
Thầy Nhất Hạnh dịch sang việt ngữ

 

愛欲品法句經第三十二三十有二章
Ái dục phẩm Pháp Cú Kinh đệ tam thập nhị tam thập hữu nhị chương

愛欲品者。 賤婬恩愛世人為此盛生災害。
ái dục phẩm giả。 tiện dâm ân ái thế nhân vi thử thịnh sanh tai hại。


1.
心放在婬行 
欲愛增枝條
分布生熾盛 
超躍貪果猴

tâm phóng tại dâm hành
dục ái tăng chi điều
phân bố sanh sí thịnh
siêu dược tham quả hầu

Tâm ý đi về hướng ái dục thì cây ái dục sẽ đâm chồi trổ nhánh rất mau.
Tâm ý phân tán vì đối tượng ái dục sẽ làm cho lửa ái dục bừng cháy trong ta.
Kẻ đi tìm ái dục cũng giống như một con vượn chuyền cành tìm trái, từ cành này sang cành khác.

2.
以為愛忍苦 
貪欲著世間
憂患日夜長 
莚如蔓草生

dĩ vi ái nhẫn khổ
tham dục trước thế gian 
ưu hoạn nhật dạ trưởng
莚như mạn thảo sanh

Ái dục buộc mình phải gánh chịu khổ đau.
Ái dục làm cho mình bị vướng mắc vào cuộc sống trần tục.
Những lo lắnghoạn nạn do ái dục đưa tới cứ tăng trưởng đêm ngày, mọc kín như cỏ tranh.

3.
人為恩愛惑 
不能捨情欲
如是憂愛多 
潺潺盈于池

nhân vi ân ái hoặc
bất năng xả tình dục
như thị ưu ái đa
sàn sàn doanh vu trì

Bị ái ân mê hoặc người ta sớm muộn gì cũng sẽ bị vướng vào dục tình.
Cái lo lắng kia càng ngày càng lớn, giống như dòng nước rỉ, rỉ mãi cũng đầy hồ.

4.
夫所以憂悲 
世間苦非一
但為緣愛有 
離愛則無憂

phu sở dĩ ưu bi
thế gian khổ phi nhất
đãn vi duyên ái hữu
ly ái tức Vô ưu

Ở đời có nhiều thứ lo lắng và đau buồn,
nhưng không có thứ lo buồn nào lớn hơn cái lo buồn do ái dục đem lại.
Buông bỏ được ái dục mới hết lo buồn.

5.
己意安棄憂 
無愛何有世
不憂不染求 
不愛焉得安

kỷ ý an khí ưu
vô áihữu thế
bất ưu bất nhiễm cầu
bất ái yên đắc an

Muốn tâm ý được an vui thì phải quyết tâm dứt bỏ ái ân.
Không ân ái thì không còn phải đi vòng quanh trong cõi luân hồi,
không còn phải mang nặng ưu tư,
không còn thấp thỏm mong cầu những gì ô nhiễm.
Không còn ái nhiễm thì sẽ được thực sự an vui.

6.
有憂以死時 
為致親屬多
涉憂之長塗 
愛苦常墮危

hữu ưu dĩ tử thời
vi trí thân chúc đa
thiệp ưu trường đồ
ái khổ thường đọa nguy

Ân ái thâm trọng thì đến giờ lâm chung,
bao quanh bởi những người thân thuộc,
sẽ thấy con đường của lo lắngsầu khổ dài như thế nào.
Cái khổ do ân ái gây nên thường đưa ta tới những hoàn cảnh không an toàn, đầy tai ách.

7.
為道行者 
不與欲會 
先誅愛本

vi đạo hành giả
bất dữ dục hội
tiên tru ái bổn

無所植根 
勿如刈葦 
令心復生

vô sở thực căn
vật như ngải vi
lệnh tâm phục sanh

Là người tu đạo, ta không nên đi về hướng ái dục.
Phải bắt đầu bằng cách tìm diệt tận gốc cái cây ái dục
để cho những cái rễ của nó không còn có thể đâm chồi lên được.
Đừng làm như cắt cỏ lau, để sau khi được cắt rồi lau lại mọc lên như cũ.

8.
如樹根深固 
雖截猶復生
愛意不盡除 
輒當還受苦

như thọ căn thâm cố
tuy tiệt do phục sanh
ái ý bất tận trừ
triếp đương hoàn thọ khổ

Gốc cây ái dục sâu và vững.
Tuy cây đã bị đốn, nhưng cành lá vẫn có thể sinh ra trở lại.
Tâm ái dục chưa dứt trừ
thì theo lẽ thường cái khổ do ái dục đem tới vẫn còn trở lại như thường.

9.
猨猴得離樹 
得脫復趣樹
眾人亦如是 
出獄復入獄

猨hầu đắc ly thọ
đắc thoát phục thú thọ
chúng nhân diệc như thị
xuất ngục phục nhập ngục

Như con vượn nhảy ra khỏi cây này thì lại nhảy vào cây khác,
người đời cũng thế, ra khỏi được một ngục tù ái dục này rồi lại lao mình vào một ngục tù ái dục khác.

10.
貪意為常流 
習與憍慢并
思想猗婬欲 
自覆無所見

tham ý vi thường lưu
tập dữ kiêu mạn tinh
tư tưởng y dâm dục
tự phước vô sở kiến

Tâm ái dục là một dòng chảy thường xuôi theo dòng tập khí và dòng kiêu mạn.
Những tư duynhận thức của ta đều có thể được tô điểm theo màu sắc ái dục
và do đó chính mình tự che lấp sự thật và không thấy được sự thật.

11.
一切意流衍 
愛結如葛藤
唯慧分別見 
能斷意根原

nhất thiết ý lưu diễn
ái kết như cát đằng
duy tuệ phân biệt kiến
năng đoạn ý căn nguyên

Dòng suối tâm ý ấy cứ mặc tình trôi chảy
khiến cho những nút thắt ái dục đan kết lại với nhau chằng chịt.
Chỉ có tuệ giác chân thực mới có khả năng phân biệt và thấy rõ được đìều này
và giúp ta đoạn trừ được căn nguyên của nó nơi tâm ý.

12.
夫從愛潤澤 
思想為滋蔓
愛欲深無底 
老死是用增

phu tùng ái nhuận trạch
tư tưởng vi tư mạn
ái dục thâm vô để
lão tử thị dụng tăng

Dòng suối ái dục thấm vào tư duynhận thức để lớn mạnh và quấn vào nhau.
Nguồn suối ái dục sâu không đáy kia làm cho cái già và cái chết tăng trưởng một cách rất mau chóng.

13.
所生枝不絕 
但用食貪欲
養怨益丘塜 
愚人常汲汲

sở sanh chi bất tuyệt
đãn dụng thực tham dục
dưỡng oán ích khâu 塜 
ngu nhân thường cấp cấp

Những cành nhánh của cây ái dục cứ tiếp tục sinh trưởng không dừng nghĩ
cũng bởi vì chúng được nuôi dưỡng bằng thực phẩm ái dục.
Thực phẩm này nuôi dưỡng oán hận, un thành gò thành đống.
Người thiếu trí tuệ thì cứ nôn nóng đi về hướng ấy.

14.
雖獄有鉤鍱 
慧人不謂牢
愚見妻子息 
染著愛甚牢

tuy ngục hữu câu diệp
tuệ nhân bất vị lao
ngu kiến thê tử tức
nhiễm trước ái thậm lao

Trong ngục thất có gông có cùm,
nhưng người có trí tuệ không thấy những dụng cụ này là thứ gông cùm vững chắc nhất.
Cái loại gông cùm ái nhiễm cột người ta vào vòng hệ lụy mới thật là loại gông cùm kiên cố.

15.
慧說愛為獄 
深固難得出
是故當斷棄 
不視欲能安

tuệ thuyết ái vi ngục
thâm cố nan đắc xuất
thị cố đương đoạn khí
bất thị dục năng an

Người có trí tuệ thấy ái dục là một thứ ngục tù kiên cố, khó thoát ra khỏi.
Người ấy biết rõ rằng phải đoạn trừ ái dục thì mới thực sự được an vui.

16.
見色心迷惑 
不惟觀無常
愚以為美善 
安知其非真

kiến sắc tâm mê hoặc
bất duy quán vô thường
ngu dĩ vi mỹ thiện
an tri kỳ phi chân

Thấy sắc mà bị mê hoặc đó là vì không biết quán vô thường.
Kẻ u mê tưởng rằng cái sắc ấy là một cái gì lành và đẹp,
không biết rằng cái bóng dáng bên ngoài kia
không chứa đựng được một cái gì bền bỉ chắc thật bên trong nó.

17.
以婬樂自裹 
譬如蠶作繭
智者能斷棄 
不盻除眾苦

dĩ dâm lạc tự khoả
thí như tàm tác kiển
trí giả năng đoạn khí
bất hễ trừ chúng khổ

Tự nhốt mình trong sắc dục thì cũng như con tằm kéo chiếc kén để tự mình giam hãm lấy mình.
Bậc trí giả có khả năng đoạn trừ và buông bỏ dục tưởng,
không thiết tha gì đến những đối tượng ái dục,
cho nên mới tránh thoát khỏi mọi khổ nạn.

18.
心念放逸者 
見婬以為淨
恩愛意盛增 
從是造獄牢

tâm niệm phóng dật giả
kiến dâm dĩ vi tịnh
ân ái ý thịnh tăng
tùng thị tạo ngục lao

Kẻ có tâm ý phóng đãng khi nhìn vào một đối tượng ái dục thì có thể cho đó là một cái gì tinh khiết,
không biết rằng sự tăng trưởng lớn mạnh của ái ân sẽ đem tới bao nhiêu hệ lụy tù ngục sau này.

19.
覺意滅婬者 
常念欲不淨
從是出邪獄 
能斷老死患

giác ý diệt dâm giả
thường niệm dục bất tịnh
tùng thị xuất tà ngục
năng đoạn lão tử hoạn

Những ai thực tập chánh niệm sẽ có khả năng thấy được rằng cái đối tượng của ái dục kia là bất tịnh,
do đó diệt trừ được dục ý, ra khỏi ngục tù và thoát khỏi tai nạn già và chết.

20.
以欲網自蔽 
以愛蓋自覆
自恣縛於獄 
如魚入笱口
為老死所伺 
若犢求母乳

dĩ dục võng tự tế
dĩ ái cái tự phước
Tự Tứ phược ư ngục
như ngư nhập cú khẩu
vi lão tử sở tý
nhược độc cầu mẫu nhũ

21.
離欲滅愛迹 
出網無所弊

ly dục diệt ái tích
xuất võng vô sở tệ

Tự quấn lấy mình trong chiếc lưới ái dục,
tự che mình bằng chiếc dù ái dục là tự trói mình trong vòng hệ lụy
như con cá tự chui vào trong một chiếc nơm, bị cái già và cái chết bắt theo
và luẩn quẩn bên cạnh đối tượng ấy như một con bê đi tìm vú mẹ.
Lìa bỏ được dục, không đi theo vết xe của ái, thì có thể vượt thoát ra ngoài chiếc lưới ái ân,
không còn bị bất cứ một cái gì làm hại nữa.

22.
盡道除獄縛 
一切此彼解
已得度邊行 
是為大智士

tận đạo trừ ngục phược
nhất thiết thử bỉ giải
đắc độ biên hành
thị vi đại trí

Đi trọn được con đường, cởi bỏ được mọi ràng buộc hệ lụy,
giải phóng được mọi phân biệt kỳ thị, vượt qua được các ý niệm lưỡng nguyên,
đó mới thiệt là bậc xuất sĩ đại trí.

23.
勿親遠法人 
亦勿為愛染
不斷三世者 
會復墮邊行

vật thân viễn Pháp nhân
diệc vật vi ái nhiễm
bất đoạn tam thế giả
hội phục đọa biên hành

Đừng thân cận với những kẻ đi ngược chánh pháp
cũng đừng bị lôi kéo theo con đường ái nhiễm.
Nếu chưa vượt thoát được thời gian,
thì hành giả vẫn còn bị kẹt vào cái thấy nhị nguyên.

24.
若覺一切法 
能不著諸法
一切愛意解 
是為通聖意

nhược giác nhất thiết pháp
năng bất trước chư Pháp
nhất thiết ái ý giải
thị vi thông thánh ý

Thấy và hiểu được tự tánh các pháp,
không còn bị vướng vào một pháp nào,
biết cách gỡ ra được mọi sợi dây ái dục trong tâm ý,
như thế là đã nắm được ý chỉ của Bụt.

25.
眾施經施勝 
眾味道味勝
眾樂法樂勝 
愛盡勝眾苦

chúng thí Kinh thí thắng
chúng vị đạo vị thắng
chúng lạc Pháp lạc thắng
ái tận thắng chúng khổ

Trong các thứ hiến tặng, hiến tặng chánh pháp là quý hơn cả.
Trong các mùi hương, hương đạo đức là thơm tho hơn hết.
Trong các thứ hạnh phúc, được sống trong chánh pháphạnh phúc lớn nhất.
Không có phương pháp nào chiến thắng được khổ đau một cách tận cùng bằng sự thực tập chấm dứt ái dục.

26.
愚以貪自縛 
不求度彼岸
貪為敗處故 
害人亦自害

ngu dĩ tham tự phược
bất cầu độ bỉ ngạn
tham vi bại xử cố
hại nhân diệc tự hại

27.
愛欲意為田 
婬怨癡為種
故施度世者 
得福無有量

ái dục ý vi điền
dâm oán si vi chủng
cố thí độ thế giả
đắc phước vô hữu lượng

Người u mê thường lấy sợi dây tham dục để tự trói mình.
Người ấy chưa có ước mong vượt sang bờ bên kia.
Tham dục gây bại hoại, đem lại tai họa cho mình và cho kẻ khác.
Tâm tham dục là ruộng đất, tham sân sihạt giống.
Đối với người có khả năng bố thí và độ đời
thì những phúc đức thu hoạch được không thể đo lường.

28.
伴少而貨多 
商人怵惕懼
嗜欲賊害命 
故慧不貪欲

bạn thiểu nhi hóa đa
thương nhân truật dịch cụ
thị dục tặc hại mạng
cố tuệ bất tham dục

Người đồng hành thì ít, hàng hóa chuyên chở thì nhiều,
kẻ thương nhân lâm vào trạng thái lo lắng kinh sợ.
Biết rằng cái đam mê dục lạc là tên giặc có thể làm tổn hại thân mạng của mình,
bậc trí giả không còn chạy theo tham dục.

29.
心可則為欲 
何必獨五欲
違可絕五欲 
是乃為勇士

tâm khả tức vi dục
hà tất độc ngũ dục
vi khả tuyệt ngũ dục
thị nãi vi dũng sĩ

Năm thứ tham dục phát sinh khi tâm mình cảm thấy có sự khả ý.
Mau chóng chấm dứt được cả năm thứ tham dục, đó mới thật là người dũng sĩ.

30.
無欲無有畏 
恬惔無憂患
欲除使結解 
是為長出淵

vô dục vô hữu úy
điềm 惔Vô ưu hoạn
dục trừ sử kết giải
thị vi trường xuất uyên

Hết tham dục thì không còn sợ hãi.
Lúc ấy ta mới được thảnh thơi an lạc.
Dục hết thì kiết sử cũng hết, do đó hành giả ra khỏi được vực sâu.

31.
欲我知汝本 
意以思想生
我不思想汝 
則汝而不有

dục ngã tri nhữ bổn
ý dĩ tư tưởng sanh
ngã bất tư tưởng nhữ
tức nhữ nhi bất hữu

Này ái dục ta ơi, ta biết gốc gác của mi rồi:
Dục ý là từ ước muốn và nhận thức sai lầmphát khởi.
Nay ta không còn ước muốn và nhận thức sai lầm về mi thì làm sao mi còn có thể phát sinh?

32.
伐樹忽休 
樹生諸惡 
斷樹盡株
比丘滅度

phạt thọ hốt hưu
thọ sanh chư ác
đoạn thọ tận chu
Tỳ-kheo diệt độ

Đốn cây ái dục mà không tận gốc thì cây ái dục sẽ mọc trở lại.
Đốn cây ái dục mà tận gốc thì vị xuất sĩ đạt tới Niết Bàn.

33.
夫不伐樹 
少多餘親
心繫於此 
如犢求母

phu bất phạt thụ 
thiểu đa dư thân
tâm hệ ư thử
như độc cầu mẫu

Nếu không chịu chặt cây ái dục
thì cành lá ái dục ít nhiều vẫn còn phát sinh.
Tâm còn vướng vào ái dục
thì người ta vẫn còn như một con bê phải luôn luôn cần đến vú mẹ.

Xem thêm: Bài liên quan đến chủ đề

GIẢNG GIẢI KINH CHIẾC LƯỚI ÁI ÂN - Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29881)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27164)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21762)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20421)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24734)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30969)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26504)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23210)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38117)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19949)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19033)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23141)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22903)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29560)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15844)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18844)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19645)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20147)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19948)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34159)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39227)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18843)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24049)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30939)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20666)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26246)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30021)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20213)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15138)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15824)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23866)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant