Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nền tảng đạo đức Phật giáo xây dựng xã hội chân thiện mỹ

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 26157)
Nền tảng đạo đức Phật giáo xây dựng xã hội chân thiện mỹ

NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
XÂY DỰNG XÃ HỘI CHÂN THIỆN MỸ

Thích Trí Giải

blank
I. Giới thiệu:

Đức Phật thị hiện ra đời không phải vì danh lợi, không phải ngồi trên ngai vàng của kinh thành Kapilavatthu (Ca-Tỳ-La-Vệ) để cai trị thiên hạ. Mà vì mục đích cao cả làm cho chúng sinh giải thoát sinh tử luân hồi, trong Kinh Pháp Hoa nói: “Như Lai xuất hiện nơi thế gian này với mục đích làm cho chúng sinh khai thị ngộ nhập Phật tri kiến.”

Vì vậy trong suốt 45 năm (theo Theravāda), hoặc 49 năm (theo Mahāyāna) “Đức Phật thuyết pháp độ sinh để lại tam tạng Kinh điển (Tripiṭaka) được chia làm ba tạng: Sūtra piṭaka (Sanskrit; Pāli: Sutta pitaka) Kinh tạng; Vinaya piṭaka (Sanskrit và Pāli) Luật tạng; Abhidharma piṭaka (Sanskrit; Pali: Abhidhamma piṭaka) Luận tạng” [1]

Tam tạng Kinh điển nhằm giáo dục con người sửa đổi từ đức tính xấu trở thành đạo đức tốt. Đạo đức Phật giáo nhằm thiết lập một xã hội chân thiện mỹ, từ một xã hội bạo động thành một xã hội hòa bình, từ những tư tưởng tiêu cực, bi quan yểm thế trở về lý tưởng tích cực, lạc quan năng độngtốt đẹp. Đạo đức Phật giáo là một lối sống thực hành mang lại an lạc hạnh phúc cho con người trong cuộc sống hiện tạigiải thoát trong tương lai chứ không phải niềm tin suông. Tam tạng Kinh điển của Phật giáo không ngoài mục đích:

Tránh xa các việc ác,
Nên làm các việc lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Đây là lời dạy của chư Phật[2]

Muốn cho xã hội hoạt động trật tựtốt đẹp bằng cách xây dựng đạo đức con người trong tất cả đoàn thể của xã hội (như: cơ quan, trường học, doanh nghiệp, gia đình...) thì đòi hỏi mỗi cá nhân cần áp dụng theo luật pháp của Nhà nước và giới luật Phật chế, thực hành đời sống tâm linh theo lời Phật dạy để diệt trừ tham-sân-si bằng ba phương pháp Giới-Định-Tuệ.

Giới diệt trừ tâm tham, Định diệt trừ tâm sân, Tuệ diệt trừ tâm si để tam nghiệp (thân, khẩu, ý) hằng thanh tịnh. Tu tập năm giới là để biểu lộ lòng từ bi, tình thương đến tất cả chúng sinh, ngăn chặn trực tiếp đến sát hại sinh mạng, còn những giới khác ngăn chặn gây mất hạnh phúc đến người khác và thúc liễm thân tâm được thanh tịnh niệm ác khỏi phát sinh.

II. Định Nghĩa Giới (Pātimokka)

Giới gọi là pātimokka (Pāli); prātimokṣa (Sanskrit) Hán việt gọi Ba-la-đề-mộc-xoa 波 羅提木叉 nghĩa là biệt giải thoát, tùy thuận giải thoát, [3]

Giới còn có nghĩa là những phẩm chất tốt đẹp đạo đức của con người, giới luật như khuôn vàng thước ngọc để thẩm định, phân biệt hành động đúng sai, đặc điểm tốt xấu của con người [4]

Giới còn gọi đạo đứcbước đầu tiên trên con đường của sự thanh lọc tâm, giới là nền tảng của tất cả những tư cách đạo đức tốt đẹp, Giới dùng để ngăn chặn những việc xấu xa từ thân, khẩu ý. Vì vậy, Giới là nền tảng đời sống đạo đức, giới là những điều răn dạy để điều chỉnh đạo đức con người nhằm mang lại hạnh phúc cho mình và tha nhân. [5]

Thế nào gọi là đạo đức, (giới hạnh) đó là những trạng thái bắt đầu của tâm sở (cetasikā) trong một con người phải lánh xa việc sát sinh, hoặc con người phải thực hành đầy đủ nhiệm vụ của mình [6]

Giới còn gọi Śīla theo Sanskrit dictionary định nghĩa từ Śīla theo thuật ngữ Phật họccách cư xử đạo đức và một trong sáu pháp Ba-la-mật, giới là những quy tắc hay còn gọi năm giới (Pañcaśila) là nền tảng đạo đức trong Phật giáo [7]

III. Phân Loại giới

Giới luật được phân chia trong bảy chúng đệ tử của Đức Phật gồm hai phần; chúng xuất giatại gia:

a) Giới xuất gia

Theo Luật-tứ-phần, Tỳ-kheo (Bhikkhus): [8]

Theo Luật-tứ-phần, Tỳ-kheo-ni (Bhikkhunis) [9]

Các loại giới

Tỳ-kheo

Chú thích n=number (số)

T=Taiśotripiṭakam

Tỳ-kheo-ni

Chú Thích n= number (số)

T=Taiśotripiṭakam

Ba-la-di pārājka; 四波羅夷

4

T22n1428, tr. 567a16

 

8

T22n1431, tr. 1031b14

Tăng-tàn Sanghādisesa 僧殘

13

T22n1428, tr. 581b06

17

T22n1431, tr. 1032a07

Bất-định Aniyatā 不定

2

T22n1428, tr. 600b08

 

 

Xả-đọa Nissaggiyā Pācittiya 捨墮

30

T22n1428, tr. 601c06

 

30

T22n1431, tr. 1034c07

Ba-dật-đề Pācittiya 單提

90

T22n1428, tr.634a08

178

T22n1431, tr. 1038c01

Ba-la-đề-đề-xá-ni pāṭidesanīyā 提舍

4

T22n1428, tr. 695c16

8

T22n1431, tr. 1038c04

Pháp-chúng-học Sekhiya 百衆學

100

T22n1428, tr. 699c17

100

T22n1431, tr. 1039a04

Diệt-tránh Adhikarana-śamathā 滅諍

7

T22n1428, tr. 713c21

7

T22n1431, tr. 1040a29

Tổng công:

250

 

348

 

- Sa-di (Śrāmaṇeras) 10 giới [10]

- Sa-di-ni (Sāmaṇerī) 10 giới [11]

Không sát sinh; không trộm cắp; không dâm dục; không nói dối; không uống rượu; không được mang vòng hoa thơm hay dùng hương thơm xoa mình; không được ca, vũ, hòa tấu, biểu diễn, hay đi xem nghe; không được ngồi giường cao và rộng lớn; không được ăn phi thời; không được nắm giữ sanh tượng (vàng bạc) bảo vật.

- Thức-xoa-ma-na-ni: tiếng Phạn gọi śikṣamānās, (Pali: sikkhamānā; Hán: thức-xoa-ma-na 式叉摩那, chánh học 正學) nghĩa là người nữ đang học tập các học xứ của tỳ-kheo-ni.

- Sáu học pháp: Không sát sinh; không trộm cắp; không dâm dục; không nói dối; không uống rượu; không ăn phi thời.[12]

Bốn học pháp đầu được phân biệt thành hai trường hợp khác nhau, trường hợp thứ nhất, trường hợp nghiêm trọng, tương đương với bốn ba-la-di đầu của Tỳ-kheo-ni, nếu phạm phải bị diệt tẫn

Ngoài ra, nếu giết hại súc vật, ăn cắp dưới mức tội ba-la-di, bốn ba-la-di cuối của Tỳ-kheo-ni, nói dối dưới mức tội ba-la- di, uống rượu và ăn phi thời; nếu phạm các điều này mà bị phát hiện, hay tự mình phát lồ trong ngày nào, thì ngay ngày đó phải thọ lại từ đầu, và lấy đây làm mốc cho hai năm học giới, còn thời gian trước khi phạm hòan toàn xóa bỏ. Ngoài sáu học pháp chính trên, còn có các học pháp phụ khác gọi là mười tám tùy pháp [13] 

b) Giới tại gia

- Ưu-bà-tắc (Phật tử nam Upāsakas), Ưu-bà-di (Phật tử nữ Upāsikās) [14]

Năm giới dành cho Phật tử: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không dùng các chất say.

Ngoài ra còn có Đại thừa Bồ-tát-giới trong Kinh Phạm-võng:

- Áp dụng cho cả hai chúng xuất giatại gia

10 giới trọng [15]

Giới sát sinh, giới trộm cướp, giới dâm dục, giới vọng ngữ, giới bán rượu giới nói lỗi tứ chúng, giới khen mình chê người, giới xan tham, giới cố giận hờn, giới phỉ báng Tam bảo,

48 giới khinh [16]

IV. Lợi ích của giới

Chúng ta thấy rằng tùy theo cấp bậc của mỗi chúng khác nhau Phật chế giới theo mỗi mức độ khác nhau. Nhưng “năm giới đều áp dụng cho tất cả bảy chúng, bởi vì năm giới rất quan trọng là nền tảng đạo đức trong cuộc sống,” [17]

Vấn đề giết hại sinh mạng là một hành động phi đạo đức, giới thứ nhất không chỉ quan trọng cho mỗi cá nhân con người mà nó còn mang lại cuộc sống hoà bình và sự tồn tại xã hội, giới không sát sinh còn thể hiện phẩm chất lòng từ bi của Phật giáo [18].

Mục đích Phật chế giới là để ngăn chặn trực tiếp vấn đề giết hại sinh mạng, Nếu “Tỳ-kheo hoặc Tỳ-kheo-ni vi phạm Ba-la-di (pārājikā) trục xuất khỏi Tăng đoàn” [19]

Trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm, Phật bảo A-Nan: “Lục đạo chúng sanh trong các thế giới, nếu khôngtâm sát hại thì không phải trôi theo sanh tử tương tục. Người tu Tam muội, cầu ra khỏi trần lao, nếu không dứt tâm sát sanh thì trần lao khó ra khỏi. Dù có nhiều trí tuệthiền định hiện tiền, nhưng tâm sát sanh không dứt, ắt phải lạc vào Ma đạo.” [20].

Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết,

Mười phương nào có nổi đao binh,

Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiện,

Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.

Trộm cướp là hành động trái đạo đức, trộm lấy của người xuất phát từ tâm tham, trộm cướp cũng là động cơ dễ gây tội giết người, một khi bại lộ vì bảo vệ mạng sống dễ ra tay giết người, hoặc khởi lòng tham giết người cướp của. Vì vậy Phật chế giới ngăn chận tâm tham tránh phạm giới sát.

Như trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: “Tâm trộm không trừ thì trần lao không ra khỏi, dầu có trí tuệ, thiền định, hiện tiền tâm trộm không dứt, quyết chắc phải đọa vào đường ác” nên Phật ngăn cấm. [21]

Một người lánh xa việc trộm cướp là kết nối đời sống an lạc và tạo hạnh phúc đối những người chung quanh. Không trộm cướp mục đích tôn trọng sự bình đẳng, nuôi dưỡng lòng từ bi, không bị sinh tử luân hồi:

“Tạc bích xuyên tường ý bất hư,
Thiên ban bách kế, khổ vinh cầu;
Kim sanh cầu đắc tha nhơn vật,
Bất giác chung thiên thọ mã ngưu.

Dịch:

Khoét vách xoi tường chí những đâu,
Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu;
Của người dầu có đời nay được,
Đời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu” (Trần Thái Tông)

Phật chế cấm giới thứ ba, hàng xuất gia không được dâm dục vì để bản thể tâm thanh tịnh, xa lìa ái dục, Phật chế giới cấm hàng phật tử không được tà dâm là ngăn chặn sự phá họai hạnh phúc gia đình người khác, và có những lợi ích sau:

Về phương diện cá nhân, Kinh Thập Thiện nói: "Người thế gian không tà hạnh thì được hưởng bốn điều lợi như sau: Sáu căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn toàn, trọn đời được người kính trọng, đoạn trừ hết cả phiền lụy khuấy nhiễu, cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm".

Về phương diện đoàn thể, trong xã hội mà ai cũng không tà hạnh, thì gia đình được yên vui hạnh phúc, những sự thương luân bại lý sẽ tiêu tan, những cảnh thù hiềm, chém giết không xảy ra nữa; con cái được mạnh khỏe, nâng niu, xã hội sẽ cường thịnh. Phật dạy cấm nói dối, cũng vì một lời nói, nếu lời nói chân thật (ái ngữ) mang lại hạnh phúc an lạc và thay đổi cuộc đời người khác, cũng một lời nói, nếu chúng ta nói dối, nói ác khẩu, nói lưỡi hai chiều, nói thêu dệt (ít nói thêm nhiều) gây tổn thương, mang lại thị phi tranh chấp, chia rẽ gây mất đoàn kết, và hạnh phúc người khác… cũng một lời nói có thể dẫn đến giết người. Đức Phật dạy: "Phù sĩ xử thế phủ tại khẩu trung, sở dĩ trảm thân do kỳ ác ngôn", nghĩa là: Phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác” [22]

Vì thế trước khi nói phải đánh lưỡi bảy lần, trong năm giới thì giới uống rượu rất nguy hại, trong Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (Sigālaka Sutta or Sigālovāda) của Trường Bộ Kinh (Dīgha-nikāya) nói rằng: “uống rượu có sáu điều tác hại: tài sản bị tổn thất, đấu tranh (tranh cãi) tăng trưởng, dễ gây bệnh tật, tổn thương danh dự, mất oai nghi tiếp xúc của con người, trí lực bị tổn hại”. [23]

Trong luật Sa-di, Đức Phật có dạy "Thà uống nước đồng sôi, cẩn thận chớ phạm đến rượu" [24]

Nuớc đồng sôi tan rã thân, rượu chết mất thân huệ mạng, nên thà tan rã thân xác thịt, để còn giữ thân huệ mạng (tinh thần, trí tuệ). Vì sao Phật ngăn cấm giới uống rượu, bởi vì phạm giới uống rượu thì bốn trọng giới cũng phạm theo

Nhân quả nghiệp báo:

Trong Tăng-chi-bộ nói rằng: “khi con người tạo nghiệp dẫn đến kết quả nghiệp trong mọi thời gian, quá khứ, hiện tạivị lai, trong kiếp hiện tại nếu bất kỳ ai tạo nghiệp xấu ác như giết hại sinh mạng, gây tổn hại đến đời sống chúng sinh thì kết quả nghiệp tổn thọ (chết yểu), ăn cướp thì kết quả nghiệp mất tài sản, tà dâm thì kết quả nghiệp mất hạnh phúc, thù hận gây thương thích người khác dẫn đến kết quả nghiệp phá vỡ tình hữu nghị, tâm ích kỷ thì dẫn đến kết quả nghiệp nghèo nàng, ghen tuông dẫn đến kết quả nghiệp thù hận, kiêu căng sinh vào gia đình nghèo khổ,… ngược lại nếu tạo nghiệp thiện dẫn đến tái sinh về cõi Trời” [25] Những giới còn lại nhằm ngăn ngừa các điều ác từ thân, khẩu và ý nghiệp không cho phát sinh tội lỗi và cũng nhằm ngăn chặn sự phá hại hạnh phúc, quyền lợi của người khác. Tu tập giới luật là để thanh lọc tâm được thanh tịnh làm thềm thang bước lên địa vị Thánh quả, “Giới luật đóng vai trò rất quan trọng cho vấn đề phát triển hòa bình và cân bằng trong xã hội, thực hành năm giới là để ngăn chặn những hành động phi đạo đức, và mang lại phúc lợi cho mỗi cá nhân, và những người khác trong xã hội” [26]

V. Nguyên nhân suy thoái đạo đức trong xã hội

Phật giáo phân tích những vấn đề bạo động suy thoái đạo đức trong xã hội bắt nguồn từ bản năng tham ái (ái dục) của người là nguyên nhân làm mất cân bằng xã hội, tâm tham đứng đầu trong ba căn bản phiền não tham (rāga) sân (dveṣa) và si (moha), sinh ra sát hại sinh mạng, trộm cướp, tà dâm, nói dối… [27]

Do vậy đức Phật dạy rằng: "Này các Tỳ kheo, do dục vọng làm duyên, nên vua tranh chấp với vua, Sát đế lợi tranh chấp với Sát đế lợi, Bà la môn tranh chấp với Bà la môn, gia chủ tranh chấp với gia chủ, cha mẹ, anh em, bè bạn tranh chấp lẫn nhau. Khi chúng đã dấn thân vào sự tranh chấp, chúng đánh nhau bằng tay, ném nhau bằng đá, đập nhau bằng gậy và chém nhau bằng gươm. Do đó, chúng bị tử thương, hoặc ngắc ngư quằn quại." [28]

Theo ngài Dalai-Lama giải thích rằng: “Tôi tin rằng sự khổ đau này là do sự thiếu hiểu biết khi con người gây tổn thương và khổ đau đến người khác để đeo đuổi tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình (sự hài lòngsở hữu của cá nhân), hạnh phúc thật sự đến từ cảm giác nội tâm bình an và sự thiểu dục tri túc, muốn đạt được phải thông qua sự tu tập lòng vị tha (từ bi) để loại trừ lòng ích kỷ tham lam, tất cả chúng ta đều là con người, chúng ta tìm kiếm hạnh phúc để cố gắng tránh xa khổ đau” [29]

Theo lời dạy của Đức Phật, tư tưởng chấp ngã là một sự mơ hồ trừu tượng, niềm tin sai lầm, nó không có thật. Sự chấp ngã ấy sinh ra tư tưởng sai lầm về ý niệm “tôi” và “của tôi” tham lam ích kỷ, chấp chặt, thù hận, ác ý, tự phụ, kiêu ngạo, tất cả những phiền não này nguyên nhân của bạo động dẫn đến vấn đề xung đột cá nhân, chiến tranh giữa các quốc gia, tóm lại từ ý niệm sai lầm này tạo nên tất cả tội ác và gây bất an trong cuộc đời. [30]

Học giả U. N. Bliswas cũng đồng quan điểm này “tham ái (tṛṣṇā) là nguồn gốc khổ đau sinh tử luân hồinguyên nhân của tất cả tội ác, bởi vậy chúng ta phải tiêu diệt tâm tham ái, thì khổ đau, bạo động chiến tranh và sự giết người, động vật sẽ chấm dứt” [31]

Trong Kinh Sigalovada của Dīgha-Nikāya, Đức Phật đưa ra sáu điều khiến hao tốn tài sản, con người trở nên nghèo nànđau khổ. (1) ham mê uống các loại rượu, (2) du hành đường phố phi thời, (3) la cà đình đám hý viện, (4) đam mê cờ bạc, (5) thân cận các bạn ác, (6) quen thói lười biếng. [32]

Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh, nhằm dứt khổ được vui. Giới định tuệ ấy được thiết lập trên tám con đường đưa đến sự an lạcgiải thoát đó là Bát-chánh-đạo.

VI. Mối quan hệ Giới-Định-Tuệ với Bát-chánh-đạo

Mục tiêu giáo dục của Phật giáohoàn thiện nhân cách đạo đức của con người, giúp con người sống đúng nhân cách của chính mình, nhân cách ấy được thiết lập trên nền tảng Giới-Định-Tuệ thông qua Bát-chánh-đạo: được chia làm ba nhóm như sau: [33]

Nhóm I. Giới (Śīla)

- Chánh ngữ: (sammā-vācā) không nói dối, không nói ác khẩu, không nói lưỡi hai chiều, không nói thêu dệt.

- Chánh nghiệp: (sammā-kammantā) không giết hại sinh mạng, không trộm cướp, không tà dâm, không uống rượu

- Chánh mạng: (sammā-ājiva) không buôn bán sinh vật, không buôn bán rượu, không buôn bán chất độc, không buôn bán nô lệ.

Nhóm II, Định (Samādhi)

- Chánh tinh tấn: (sammā-vāyāma) Tinh tấn ngăn ngừa điều ác chưa phát sanh, tinh tấn dứt trừ điều ác đã phát sanh, tinh tấn làm tăng trưởng điều thiện đã phát sanh. Tinh tấn tăng trưởng điều thiện chưa phát sanh được phát sanh.

- Chánh niệm: (sammā-sati) thân, khẩu, ý luôn giữ chánh niệm không khởi ác.

- Chánh định: (sammā-samādhi) Định là thiền định, Chánh địnhchuyên tâm nhớ nghĩ một cách chân chánh tìm về cội nguồn cuộc sống nơi tâm, chuyên chú gạn bỏ mọi phiền não không đắm trước sự thật của vạn pháp.

Nhóm III, Tuệ (Pañña)

- Chánh kiến: (sammā-ditthi) thấy rõ khổ, nguyên nhân của khổ, diệt khổcon đường đưa đến diệt khổ (tóm lại thấy rõ sự thật của Tứ-Diệu-Đế)

- Chánh tư duy: giải thoát tư tưởng tham lam, sân hậnđộc ác.

VII. Tổ chức xã hội và chính trị

-a) Tổ chức xã hội:

Đối với tổ chức xã hội Hindu tại Ấn-Độ thời xưa chủ yếu dựa vào giai cấp, không có dựa vào từng cá nhân, nguồn gốc chính ban đầu tổ chức xã hội theo bốn giai cấp Brahmins (Bà-la-môn), Kshatriyas (Sát-đế-lợi), Vaishya (Phệ-xá), Shudras (Thủ-đà-la), ngày nay bao gồm năm giai cấp, giai cấp thứ năm ấy được gọi là “panchamas”* or “untouchabl”. Họ không công nhận tình anh em, vì họ tin rằng xã hội của họ dựa trên lý thuyết con người được sinh ra từ những phần khác nhau của vị Thần, Theo Ṛg-Veda thì bốn đẳng cấp được sinh ra từ một nguồn, từ trên cùng cơ thể của con người sơ thuỷ (Puruṣa): Bà-la-môn được sinh ra từ miệng; Sát-đế-lợi sinh ra từ tay; Phệ-xá sinh ra từ bắp vế; và Thủ-đà-la sinh ra từ chân [34]

Đức Phật chưa bao giờ dạy rằng bất kỳ người nào tôn quý nhất trong cõi đời, Ngài bảo rằng: “tất cả đều bình đẳngmọi người đều có thể chứng Niết-bàn, hòa bình và sự thịnh vượng đối với tất cả mọi người. Đức Phật bảo rằng cũng giống như nước từ con sông Hằng (Ganga) nó từ Jamuna, nó chảy vào biển, tất cả đều nước biển, cũng giống vậy không có sự phân biệt giữa con người khi họ vào tôn giáo của Ngài. Vì vậy, tất cả bình đẳng trong tôn giáo của Ngài [35]

Phật tính bình đẳng trong mọi chúng sinh” là tư tưởng nhân quyền trong xã hội mọi người đều được tôn trọng như nhau để phá bỏ giai cấp cân bằng xã hội

b) Phật giáo và chính trị

Trong Tăng-chi-bộ-kinh: Ðức Phật đã chỉ ra, chính các bậc Vua chúa là người phải an lập mình vào chánh pháp (dhamma), hiếu đạo với cha mẹ và có lòng chánh trực, tránh những thói hư tật xấu và làm mẫu mực cho thần dân của mình.

Ngài nói: "Nếu Vua là người được liệt vào hàng chánh trực nhất trong số những thần dân sống không chánh trực của mình. Thời có cần phải nói người khác không? Mọi người sẽ noi theo gương Vua. Nếu Vua sống không chánh trực thì cả nước sống trong thống khổ... nếu Vua sống ngay thẳng, mọi người sẽ tích cực noi gương Vua và cả nước sẽ sống trong hạnh phúc" [36].

Lại nữa Đức Phật bảo rằng: “khi người lãnh đạo (cai trị, cầm quyền) một quốc gia công bằngđức hạnh, các bộ trưởng (đại thần) cũng trở công bằngđức hạnh, khi các bộ trưởng công bằngđức hạnh những giới chức cao cấp trở nên công bằngđức hạnh, khi giới chức cao cấp công bằngđức hạnh thì đội ngũ và đoàn sinh trở nên công bằngđức hạnh, khi đội ngũ đoàn sinh trở nên công bằngđức hạnh thì người dân trở nên công bằng và đức hạnh” [37]

Trong Jataka Đức Phật dạy 10 điều cần thiết cho một chính quyền tốt được gọi là “Dasa Raja Dharma=Thập-vương-pháp.” Mười điều này có thể áp dụng cả đến ngày nay cho bất cứ một chính quyền muốn cai trị nước hòa bình, 10 nguyên tắc đó là: (1) không thành kiến, tránh xa lòng ích kỷ, (2) duy trì đặc tính cao, (3) sẵn sàng hy sinh những thú vui riêng tư chăm lo hạnh phúc cho người dân (4) chân thậthết sức liêm chính (5) sống đời sống hiền lành (6) đời sống đơn giản để người dân tích cực noi theo, (7) không bị bất cứ hình thức sân hận nào, (8) thực hiện tinh thần bất bạo động, (9) thực hành lòng kiên nhẫn, (10) tôn trọng ý kiến quần chúng để động viên hòa bình và hòa hợp [38]

Lại nữa một quốc gia muốn hưng thịnh, trở thành cường quốc không bị ngoại xâm, xâm hại và thôn tính, không phải đi chiếm, xâm lấn những đất nước khác mà sức mạnh nằm trong lòng dân vì thế đức Phật đưa ra bảy nguyên tắc để một quốc gia hưng thịnh không bị diệt vong. Khi vua Ajātasattu Vedehiputta (阿闍世 Pl: Ajātasattu Vedehiputto Vua A Xà Thế) của nước Māgadha (Ma Kiệt Đà) Vua A Xà Thế muốn tấn công nước Vajjins (跋 祇.越祇. Pl.: Vajji= Nước Bạt Kỳ) bấy giờ đức Phật đã dạy bảy điều để một quốc gia hưng thịnh như sau: (1) sinh hoạt dân chủ, (2) tình đoàn kết dân tộc, (3) nguyên tắc pháp trị, (4) sự hòa hợp các thế hệ, (5) tôn trọng phụ nữ, (6) tôn kính các tín ngưỡng, (7) ưu đãi các bậc minh triết. Đây là 7 nguyên tắc giúp quốc gia hưng thịnh và tránh diệt vong. Sau khi nghe Tôn giả A Nan trả lời rằng dân Vajji đã thực hiện 7 pháp này rất tốt đẹp, Đức Phật kết luận:"Thế thì dân Vajji sẽ phú cường, không ai có thể chinh phục được". [39]

Lại nữa trong Kinh Cakkavatti Sihanada đức Phật khuyên thêm về tư cách của người lãnh đạo: (1) người cầm quyền tốt hành động vô tư, không nên thành kiến và không kỳ thị giữa nhóm này nhóm khác (2) người cầm quyền tốt không ấp ủ bất kỳ các loại sân hận nào với ai, (3) người cầm quyền tốt không nên sợ hãi bất kỳ điều gì khi thi hành luật pháp, nếu luật pháp ấy đúng, (4) người cầm quyền tốt phải có sự hiểu biết rõ ràng luật lệ thi hành, không phải luật lệ phải thi hành chỉ vì người cầm quyền có quyền hành để thi hành luật ấy, luật pháp phải được thi hành một cách hợp lý và hợp lẽ [40]

Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) đã vạch ra đường hướng cai trị đất nước dựa trên bốn nguyên tắc sau: (1) việc chuyển hóa tâm thức và đổi mới xã hội không thể tách rời nhau, (2) vai trò tối hậu của cá nhân trong hành trình giác ngộ là điểm then chốt của đạo đức chính trị, (3) việc truyền bá chánh pháp tạo cơ hội mọi người tu học thành tựu giác ngộyêu cầu quan trọng của nhà lãnh đạo, (4) nhà lãnh đạo phải tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu kinh tế của mọi người để họ có thời giờ tu họchành trì chánh pháp, Ngài còn vạch ra một chương trình cụ thểchi tiết về an sinh, kinh tế xã hội y tế và giáo dục rất nhân bảntiến bộ [41]

Ngoài ra ngài Long Thọ còn đề ra 10 phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho vị Vua để cai trị đất nước: Vua phải thực hành tinh thần bất bạo động, cấm giết hại sinh mạng (ahiṃsā), cấm trộm cướp, cấm tà dâm, kiểm sóat lời nói của mình, tránh vu khống, triệt để từ bỏ lòng tham, sân, và tránh giải trí những thứ sai trái, kiêng cữ say rượu,… dẫn đến một vị vua chân chính, Ngài khuyến khích vua thực hành những phẩm chất đạo đức ở trên thì vua sẽ được niềm tin tuyệt đối của thần dân, nếu đi ngược lại những quy tắc ấy làm mất niềm tin của thần, dân. [42]

VIII. Asoka (vua A-Dục) tấm gương sáng cai trị một quốc gia hòa bình và an lạc

Trong lịch sử của đại đế Asoka (vua A-Dục) vào thế kỷ thứ III tr CN. [43]

Sau những cuộc chinh phạt đẫm máu của mình, đại đế Asoka cảm thấy kinh hoànghối hận, chính giáo lý của đức Phật đã chuyển hóa cuộc đời của vua Asoka với những chiến thắng quân sự, vũ khí thay bằng chiến thắng đạo đức tâm linh. Sau đó vua Asoka thực hiện tinh thần bất bạo động thực hành theo năm giới, dưới sự cai trị của đức vua Asoka hoàn toàn đã thay đổi chính sách cai trị điềm đạm ôn hòa, từ bỏ lối tra tấn, không bạo lực, dân chúng được che chở mà ngay cả thú vật cũng được bảo vệ, Asoka ra lệnh cấm săn bắn, nhà vua còn kiêng cữ ăn thịt khuyến khích dân chúng ăn chay, ngoài ra nhà vua còn làm nhiều việc phúc lợi cho xã hội cất nhà cho người lữ hành nghỉ chân, xây dựng bệnh viện, các khu an dưỡng, cấp thuốc trị điều dưỡng cho những tù nhân. [44]

IX. Giáo dục đạo đức trong gia đình

Trong bài kinh Sigāla Sutta (Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt) [45]

Đức Phật dạy về đạo đức của người Phật tử tại gia với những ngôn ngữ rất bình dị, Ngài dạy cha mẹ phải có trách nhiệm với con cái, đạo làm con, đạo vợ chồng, mối quan hệ bạn bè, thân quyến, giữa chủ và tớ, phận sự đối với tôn giáo.

Hơn hai ngàn năm trăm năm trước Đức Phật dạy về năm bổn phận căn bản của cha mẹ đối với con cái như sau:

- “Ngăn ngừa con khỏi những điều bất thiện;
- Khuyến khích, động viên con làm những điều lành;
- Cho con học nghề nghiệp;
- Hướng con đến một cuộc hôn nhân thích hợp;
- Trao truyền sản nghiệp (vật chất và những giá trị văn hoá truyền thống) cho con một cách đúng

Con cái cần phải biết ơn cha mẹ, tự có trách nhiệm với chính mình và với cha mẹ dưới năm điểm căn bản

- Cha mẹ đã nuôi dưỡng ta, ta phải nâng đỡ cha mẹ;
- Ta phải thay cha mẹ chu toàn bổn phận;
- Ta phải giữ truyền thống gia đình;
- Ta phải xứng đáng là người thừa kế;
- Ta phải làm phước để hồi hướng công đức đến cha mẹ.”

Những lời dạy này vẫn có giá trị thiết thực ngay trong thời đại của chúng ta, nếu tất cả các bậc cha mẹ ghi nhớ và thực hành những lời dạy này chắc chắn rằng gia đình sẽ bớt xung đột, xã hội sẽ bớt được rất nhiều tệ nạn, và cuộc sống nói chung sẽ bớt được nhiều rủi ro và khổ đau không cần thiết. Con cái cần phải biết ơn cha mẹ, tự có trách nhiệm với chính mình và với cha mẹ.

Đức Phật đã thiết lập hệ thống đạo đức khuyến khích người cư sĩ tại gia sống chân chính, và chu toàn trách nhiệm bổn phận một cách tốt đẹp trong các mối quan hệ nhằm xây dựng một xã hội chân thiện mỹ (văn mình và lành mạnh)

X. Kết Luận:

Tóm lại qua sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng, vai trò Phật giáo rất quan trọng cho vấn đề phát truyển xã hội, nếu bất kỳ một quốc gia nào áp dụng theo nền tảng đạo đức Phật giáo thì chắc chắn rằng sẽ mang đến một quốc gia hưng thịnh chấm dứt tệ nạn xã hội, một xã hội chân thiện mỹ.

Để làm được điều đó không phải chuyện dễ, đòi hỏi những nhà lãnh đạo quốc gia phải làm gương áp dụng thực hành trước theo lý tưởngđạo đứcĐức Phật đã thiết lập ra, dân chúng sẽ noi gương theo, như tấm gương của Đại đế Asoka là một minh chứng

Ngoài ra trách nhiệm Tăng sĩ cũng rất quan trọng phải có trách nhiệm chia sẻ kinh nghiệm hiểu biết hướng dẫn Phật tử tu hành bằng những khóa tu để giáo dục đạo đức tuổi trẻ nhận rõ tác hại của tâm tham, sân, và si

Nhờ những khóa tu ở các tự viện hiện nay, giúp các em trẻ học hỏi giáo lý, thực tập thiền định để tâm ôn hòa và có niềm tin vững chắc về nhân quả thì chắc chắn các em không bao giờ phạm pháp rơi vào vòng lao lý.

Mỗi người tự ý thức tu hành chấn chỉnh đạo đức cho mình để hoàn thiện nhân cách làm người là góp phần xây dựng xã hội văn minh tốt đẹp, hòa bình, và an lạc,

“Kẻ trí sống tại gia,
Thấy địa ngục sợ hãi,
Do thọ trì Thánh pháp,
Trừ bỏ tất cả ác
 Không sát hại chúng sanh,
 Biết rồi hay lìa bỏ,
Chân thật không nói dối,
Không trộm của kẻ khác,
Tri túc với gia phụ,
Không ái lạc vợ người,
Dứt bỏ việc uống rượu,
Gốc tâm loạn cuồng si
Thường nên niệm chánh giác,
Suy nghĩ các pháp lành,
Niệm Tăng, quán giới cấm,
Do đó được hoan hỉ…” [46]

Vì vậy giới là nền tảng căn bản đạo đức của con người, và thực hiện tinh thần bất bạo động, giữ hòa bình cho gia đình, xã hộithế giới. Giới như chiếc bè đưa người vượt dòng sông sinh tử đến bờ an vui hạnh phúc miên viễn (Niết-bàn)

Thích Trí Giải

_____________________________________________

Chú thích:

[1] Ḗ. Lamotte, History of Indian Buddhism, S. W. Boin (translated from the French) Université Catholique De Louvain Institut Orientaliste Louvain-la-Neuve 1988, p. 149.

[2] Dhammapāda, The Word of the Doctrine, K. R. Norman (tr) Published by The Pālitext Society Oxford 2000. p. 28

[3] Pāli Dictionary

[4] Kamla Jain, The Concept of Pañcaśila in Indian Thought, P.V Reseach Institute Varanasi 1983, p.

[5] K.H. Shah. “The Buddhist Path of Purification Its Socio-Spiritual Signification” K. Sankarnarayan (ed) Contribution of Buddhism World Culture, Somaiya Publishcations 2006, Vol. I. pp-68-69.

[6] B. Buddhaghosa, The Path of Purification (Visuddhimagga), Ňāṇamoli (translated from the Pali) Buddhist Publication Society 2010, p. 10.

[7] M. Monier-William, Sanskrit-English Dictionary, Motilal Banarsidass Publisher 2005 p. 1079. 

[8] 四分律比丘戒本 T22n1429, tr. 1015a04

[9] 四本比丘尼戒本 T22n1431, tr. 1030c15

[10] 沙彌十戒并威儀 T24n1471, tr. 0926b03

[11] 沙彌尼戒經 T24n1474, tr. 937a11

[12] Sáu học pháp của thức-xoa-ma-na, các luật bộ đại để tương đồng. Riêng Căn bản thuyết hữu bộ, có nội dung khác hẳn: 1. Không được đi đường một mình; 2. Không được lội sông một mình; 3. Không được đụng chạm thân thể đàn ông; 4. Không được ngủ chung nhà với đàn ông; 5. Không được làm mai dong; 6. Không được che dấu trọng tội của ni và thêm sáu tùy pháp: 1. Không được cất giữ vàng bạc làm của riêng; 2. Không được cạo lông chỗ kín; 3. Không được đào xới đất nơi mà cây cối có thể mọc; 4. Không được cố ý nhỗ cây cỏ còn sống; 5. Không được ăn đồ ăn mà người không mời; 6. Không được ăn đồ ăn đã được người khác đụng đến. Căn bản ni 18 (Đại 23, tr. 1005a2). Cf. Pali, Bhikkhunivibhaṅga, Pā. 63, Vinaya. iv. 319.

Trích từ Karmavacanābindusāra, HT. Thích Trí Thủ dịch giảng Yết-Ma-Yếu-Chỉ chương IV

[13] Tiếp theo

[14] T24n1476 tr. 939c15

[15] 梵網經 T24n1484 tr. 1004b16- 1005c25:

[16] T24n1484 tr. 1006a01

[17] H. Shukla, “Pañcaśīla”, M. Tiwary (ed.) Perspectives on Buddhist Ethics, Published Department of Buddhist Studies Delhi University 1989 p. 80

[18] Tiếp theo

[19] T22n1429, tr. 1015c13-16.

[20] The Śūraṅgama Sūtra (Leng Yen Ching) C. Luk (tr.) Mushiram Manoharlal Publishers 2007, p. 153

[21] Tiếp theo, p. 155.

[22] 夫士處世斧在口中 所以斬身由其惡言 T24n1471, p. 926c19:

[23] Dīgha-Nikāya, III 183. M. Walshe (tr) The Long Discourses of the Buddha, Wisdom Publication 1995. p. 462

Xem Trường Bộ Kinh

[24] 寧飮洋銅。愼無犯酒 T24n1471 tr. 926c24:

[25] Aangutara Nikāya. II. 230. F. L. Woodward (tr.), The Book of the Gradual Sayings, pp. 238-239

[26] K.H. Shah, op.cit., p. 69.

[27] S. B. Singh, “Buddhism and Social Harmony”,Y. S. Rao (ed) Buddhism and Modern Society, Deep Publication 2008, pp.2-3. Và xem I. M. Ghosh, Ahiṃsā Buddhist and Gandhian, Indian Bibliographies Bureau Co-Publisher 1947, pp. 4-9 xem U. N. Bliswas, “Buddhism-A Forensic-Criminological Approad”, K. Sankarnarayan (ed.) op.cit., pp. 12-13

[28] Majjhima Nikāya. I.87. Ñāṇamoli & Bodhi (tr.) The Middle Length Discourses of the Buddha, p. 181

[29] Vyas & D. V. Nene, Changing Course of Brahmaputra Dalai Lama the Change Initiator, p. 51

[30] P. Sahni, Environmental Ethics in Buddhism, C. S. Prebish & D. Keown (ed.) Routledge Taylor& Francis Group London& New York 2008, p. 116.

[31] U. N. Bliswas, op.cit., pp. 12-13

[32] “Sigalovada sutta” Dīgha Nikāya, III. 180, M. Walshe (tr) The Long Discourses of the Buddha, Wisdom Publications, 1995 p. 141.

[33] Ibid., p. 19 và xem P. Abai, Buddhism and Modern Sosiety op.cit., 103.

* (ở Ấn Độ) (người) thuộc một đẳng cấp Hindu mà nếu đụng chạm tới họ là bị coi (như) làm ô uế những người thuộc các tầng lớp trên; tiện dân

[34] P. Abai, Buddhism and Modern Sosiety op.cit., 105.

[35] Tiếp theo

[36] Piyadassi Thera, The Buddha's Ancient Path, Pháp Thông Việt dịch chương X

[37] xem P. Abai, đã trích dẫn ở trên, trang 108

[38]Tiếp theo

[39] 佛告阿難。人數相集會講議正事不。1)長幼和順轉更増盛。2)國人君臣和順上下相敬。3)人奉 法曉忌不違禮度。4)人孝事父母敬順師長。5)人恭於宗廟致敬鬼神。6)人閨門眞正潔淨無穢至於戲笑言不及邪。7)人宗事沙門敬持戒者瞻視護養未嘗懈 T1n1, tr. 11a8-11b13. Và xem Dīgha-Nikāya. I.6. M. Walshe, op.cit., p. 68. Xem Anguttara Nikāya. II.208. F. L. Woodward (tr.) the Book of the Gradual Sayings, London Published for the Pali text society 1960 p. 27

[40] P. Abai, Buddhism and Modern Sosiety op.cit., 108

[41] Xem Đức PhậtPhật Pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch NXB TPHCM, 1998

[42] V.V.S. Saibaba “Contribution of Buddhist Ethics and State Craft to World Culture, K. Sankernarayan (ed) Contribution of Buddhism to World Culture, Somaiya Publication 2004 p. 261.

[43] I. M. Ghosh, đã trích dẫn trên, p. 58.

[44 ] Hinduism Buddhism and Jainsm in Ancient India, B.R. Verma & S.R. Bakshi (ed) Published by Ajay Verma 2005 pp. 115-116.

[45] Dīgha Nikāya, III. 180, M. Walshe (tr) The Long Discourses of the Buddha, Wisdom Publications, 1995 p. 161, và xem Dīgha Nikaya Trường Bộ Kinh 31. Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (Sigàlovàda sutta) HT. Thích Minh Châu Việt dịch.Trang 538

[46]中 阿 含 經 Kinh Trung A Hàm Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm, Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ, Phẩm Đại, Kinh Ưu Bà Tắc


(CÙNG TÁC GIẢ)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11647)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11971)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12077)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12573)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10776)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9961)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10187)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15357)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11196)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12097)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10628)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14851)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12702)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11867)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11964)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12778)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13637)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18027)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11182)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9088)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13064)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10323)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10702)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant