Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm thân kim cương

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 12695)
Phẩm thân kim cương

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ ba

 PHẨM THÂN KIM CƯƠNG

PHẦN V :

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Này thiện nam tử ! Thân Như Lai là thân thường trụ, thân chẳng hoại, thân kim Cương, chẳng phải là thân tạp thực, tức là pháp thân!

Ngài Ca Diếp Bồ tát bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như lời nói của đức Phật, những thân như vậy con đều chẳng thấy mà con chỉ thấy thân tạp thực, bụi đất, phá hoại vô thường.v.v... Vì sao vậy ? Vì Như Lai hôm nay sẽ vào Niết Bàn vậy !

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp :

- Ông nay chớ gọi thân Như Lai chẳng bền, có thể hoại như thân của phàm phu ! Này thiện nam tử ! Nay ông phải biết là, thân Như Lai vô lượng ức kiếp bền chắc khó hoại, chẳng phải thân của người trời, chẳng phải thân khủng bố, chẳng phải thân tạp thực. Thân Như Lai chẳng phải là thân, thân này chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng tập, chẳng tu, vô lượng vô biên, không có dấu chân, không biết, không hình, rốt ráo thanh tịnh, không có lay động, không thọ, không hành, chẳng trụ, chẳng tác, không vị (mùi vị), không tạp, chẳng phải là hữu vi, chẳng phải nghiệp, chẳng phải quả, chẳng phải hành, chẳng phải diệt, chẳng phải tâm, chẳng phải số, chẳng thể nghĩ bàn, thường trụ chẳng thể bàn, vô thức lìa tâm cũng chẳng lìa khỏi tâm. Tâm ấy bình đẳng không có, cũng có, không có đi lại mà cũng đi lại, chẳng phá, chẳng hoại, chẳng đoạn, chẳng tuyệt, chẳng sinh ra, chẳng diệt mất, chẳng chủ, cũng là chủ, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải giác, chẳng phải quán, chẳng phải chữ, chẳng phải chẳng chữ, chẳng phải định, chẳng phải chẳng định, chẳng thể thấy mà thấy tỏ rõ, không xứ cũng xứ (chỗ), không nhà cũng nhà, không tối, không sáng, không có tịch tịnh mà cũng tịch tịnh, là không sở hữu, chẳng thọ, chẳng thí, thanh tịnh vô cấu, không tranh, đoạn tranh, trụ không chỗ trụ, chẳng thủ, chẳng đọa, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp, chẳng phải phước điền, chẳng phải phi phước điền, vô tận chẳng tận, lìa tất cả tận, là không lìa khỏi không, tuy chẳng thường trụ mà chẳng phải niệm niệm diệt, không có vẩn đục, không chữ, lìa khỏi chữ, chẳng phải tiếng, chẳng phải nói, cũng chẳng phải tu tập, chẳng phải xưng, chẳng phải lường, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải tượng, chẳng phải tướng mà các tướng trang nghiêm, chẳng phải dũng, chẳng phải úy (sợ), không tịch chẳng tịch, không nhiệt chẳng nhiệt (nóng), chẳng thể nhìn thấy, không có tướng mạo. Như Lai độ thoát tất cả chúng sinh, không độ thoát nên có thể giải thoát chúng sinh, không có giải nên giác liễu chúng sinh, không giác liễu nên nói pháp như thật, không có hai nên chẳng thể lượng vô đẳng đẳng, bằng phẳng như hư không, không có hình mạo, đồng với tánh vô sanh, chẳng đoạn, chẳng thường, thường hành Nhất thừa, chúng sinh thấy ba (Tam Bảo ?), chẳng thoái, chẳng chuyển, đoạn tất cả kết, chẳng chiến, chẳng xúc (chạm), chẳng phải tánh trụ tánh, chẳng phải hợp, chẳng phải tan, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải tròn, chẳng phải vuông, chẳng phải ấm, nhập, giới cũng là ấm, nhập, giới, chẳng phải tăng, chẳng phải tổn, chẳng phải thắng, chẳng phải phụ... Thân Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy không có ai biết, không ai chẳng biết, không có ai thấy, không ai chẳng thấy, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải đời, chẳng phải chẳng đời (thế), chẳng phải tác, chẳng phải chẳng tác, chẳng phải nương, chẳng phải chẳng nương (y), chẳng phải bốn đại, chẳng phải chẳng bốn đại, chẳng phải nhân, chẳng phải chẳng nhân, chẳng phải chúng sinh, chẳng phải chẳng chúng sinh, chẳng phải Samôn, chẳng phải Bàlamôn chính là sư tửđại sư tử, chẳng phải thân chẳng phải chẳng thân, chẳng thể tuyên nói trừ một pháp tướng chẳng thể tính toán, khi bát Niết Bàn thì chẳng bát Niết Bàn. Pháp thân Như Lai đều thành tựu vô lượng công đức vi diệu như vậy. Này Ca Diếp! Chỉ có Như Lai mới biết tướng này, chẳng phải điều biết của các Thanh Văn, Duyên Giác. Này Ca Diếp ! Thân Như Lai thành tựu những công đức như vậy, chẳng phải là thân do tạp thực nuôi lớn ! Này Ca Diếp ! Chân thân Như Lai công đức như vậy thì làm sao lại bị các bệnh hoạn, khổ nguy dễ tan vỡ, chẳng bền chắc như đồ đất thô (chưa nung) ư ? Này Ca Diếp ! Sở dĩ Như Lai thị hiện bệnh khổ là vì muốn điều phục các chúng sinh vậy. Này thiện nam tử ! Nay ông phải biết rằng, thân Như Lai tức là thân Kim cương. Từ nay ông thường phải chuyên tâm suy nghĩ về ý nghĩa này ! Ông chớ nghĩ là thân tạp thực và cũng phải vì người nói thân Như Lai tức là pháp thân !

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai thành tựu công đức như vậy thì làm sao thân ngài sẽ có bệnh khổ vô thường phá hoại ? Từ ngày hôm nay con thường phải suy nghĩ thân Như Laipháp thân thường còn, là thân an lạc. Con cũng sẽ vì người rộng nói như vậy ! Kính thưa đức Thế Tôn ! Pháp thân Như LaiKim Cương bất hoại mà chưa có thể biết đã do nhân duyên gì ?

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Do cái nhân duyên hay hộ trì chánh pháp nên được thành tựu thân Kim Cương này. Này Ca Diếp ! Vào thuở xa xưa, ta có nhân duyên hộ pháp nên nay được thành tựu thân Kim Cương này, thường trụ chẳng hoại. Này thiện nam tử ! Người hộ trì chánh pháp mà chẳng thọ năm giới, chẳng tu oai nghi thì nên cầm dao kiếm, cung tên, sào mâu... thủ hộ vị Tỳkheo giữ giới thanh tịnh !

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có vị Tỳ kheo lìa khỏi sự thủ hộ, ở một mình chỗ không nhàn, bãi tha ma, dưới gốc cây... thì phải nói người này là Tỳ kheo chân chính. Nếu có người đuổi theo hành giả để thủ hộ thì phải biết rằng nhóm người này chính là cư sĩ ngốc !

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Ông chớ nói lời này ! Rằng là cư sĩ ngốc ! Nếu có vị Tỳ kheo, thân nhận đủ sự cung cấp của kẻ theo đến chỗ của mình thì dù vị Tỳ kheo đó đọc tụng kinh điển, tư duy tọa thiền và có người đến hỏi pháp liền vì họ tuyên nói như là nói bố thí, trì giới, phước đức, thiểu dục tri túc, tuy có thể nói pháp đủ thứ như vậy, nhưng chẳng thể tạo được tiếng rống của sư tử, chẳng được sự vây quanh của sư tử, chẳng thể hàng phục người ác phi pháp. Vị Tỳ kheo như vậy chẳng thể tự lợi và lợi chúng sinh. Ông phải biết rằng, bọn này giải đãi biếng lười, tuy có thể trì giới, giữ gìn tịnh hạnh, nhưng ông phải biết là người này không làm được gì ! Nếu có Tỳ kheo mà đồ cung cấp cho thân cũng thường đầy đủ dồi dào, lại hay hộ trì việc thọ cấm giới thì có thể rống tiếng sư tử rộng nói diệu pháp như là các kinh Tu Ða La Kỳ Dạ, Thọ Ký, Già Ðà, Ưu Ðà Na, Y Ðế Mục Ða Già, Xà Ðà Già, Tỳ Phật Lược, A Phù Ðà Ðạt Ma.v.v... chín bộ Kinh điển như vậy vì người khác mà nói rộng rãi, lợi ích an lạc cho các chúng sinh. Họ xướng lên lời như vầy : “Trong kinh Niết Bàn chế các Tỳ kheo chẳng nên nuôi dưỡng nô tỳ, trâu dê... những vật phi pháp. Nếu có Tỳ kheo nuôi những vật bất tịnh như vậy thì cần phải sửa trị. Ðức Như Lai trước, ở trong các bộ Kinh khác, có nói rằng, có vị Tỳ kheo nuôi những vật phi pháp như vậy đã bị vị quốc vương của nước đó theo đúng như pháp sửa trị, đuổi trở về với thế tục”. Nếu khi có vị Tỳ kheo có thể rống tiếng sư tử như vậy mà có kẻ phá giới nghe được lời nói đó rồi đều nổi sân nhuế làm hại vị pháp sư này. Người nói pháp đó giả sử lại mạng chung nên gọi là trì giới lợi mình và lợi người khác. Do cái duyên này nên ta cho phép Quốc vương, quần thần, tể tướng, các Ưu bà tắc... hộ trì người nói pháp. Nếu có người muốn được hộ chánh pháp thì phải học tập như vậy. Này Ca Diếp ! Như vậy người phá giới chẳng hộ pháp thì gọi là cư sĩ ngốc chứ chẳng phải người trì giới bị gọi như vậy ! Này thiện nam tử ! Thuở đời quá khứ xa xưa, vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp, ở thành Câu Thi Na này, có đức Phật ra đời hiệu là Hoan Hỷ Tăng Ích Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhơn Sư Phật Thế Tôn. Thế giới bây giờ rộng rãi nghiêm tịnh, thịnh vượng, an vui, ổn định, nhân dân đông đúc, không có đói khát như những vị Bồ tát... của nước An lạc. Ðức Phật Thế Tôn đó trụ thế không lường, giáo hóa chúng sinh rồi nhiên hậu mới đến Ta La song thọ vào Bát Niết Bàn. Sau đức Phật Niết Bàn để lại giáo pháp trụ thế vô lượng ức năm. Còn bốn mươi năm nữa lúc Phật pháp chưa diệt, bấy giờ có một vị Tỳ kheo trì giới tên là Giác Ðức, có nhiều đồ chúng quyến thuộc vây quanh, có thể rống tiếng sư tử ban tuyên rộng rãi giảng nói chín bộ Kinh điển, hạn chế các vị Tỳ kheo chẳng được nuôi dưỡng nô tỳ, trâu dê... các vật phi pháp. Lúc bấy giờ, có nhiều Tỳ kheo phá giới nghe nói lời này thì đều sinh ác tâm. Họ cầm dao gậy đến bức bách vị pháp sư đó. Lúc đó có vị quốc vương tên là Hữu Ðức nghe việc này rồi thì vì hộ pháp nên liền đi đến chỗ người nói pháp cùng với các Tỳ kheo ác phá giới cực lực đấu tranh với họ khiến cho người nói pháp được khỏi nguy hại. Nhà vua bị thương cùng khắp toàn thân. Bấy giờ ngài Giác Ðức liền khen nhà vua rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Nhà vua hôm nay quả thật là người hộ chánh pháp. Ðời đương lai thân này sẽ làm pháp khí không lường”. Vào lúc đó, nhà vua được nghe pháp rồi, lòng rất vui mừng, liền mạng chung, sinh vào nước của đức Phật A Súc mà được làm đệ tử thứ nhất của đức Phật đó. Nhân dân quyến thuộc theo đức vua ấy có chiến đấu, có tùy hỷ, tất cả chẳng thoái tâm Bồ Ðề, sau khi mạng chung đều sinh vào nước của đức Phật A Súc mà được làm đệ tử thứ hai trong chúng Thanh Văn của đức Phật đó. Nếu khi có Chánh pháp sắp diệt tận thì cần phải thọ trì ủng hộ như vậy. Này Ca Diếp ! Vị vua lúc bấy giờ là thân ta đó ! Vị Tỳ kheo nói pháp là Phật Ca Diếp đó ! Này Ca Diếp ! Người hộ Chánh pháp được vô lượng phước báo như vậy. Do nhân duyên đó nên ta ngày hôm nay được đủ thứ tướng để tự trang nghiêm, thành tựu pháp thân, thân chẳng thể hoại.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Thân Như Lai thường giống như họa thạch (vẽ trên đá) !

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này nên Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cần phải siêng gia công hộ trì Chánh phápquả báo hộ pháp rộng lớn không lường. Này thiện nam tử ! Vậy nên khi hộ pháp thì Ưu bà tắc.v.v... nên cầm dao gậy ủng hộ Tỳ kheo trì pháp như vậy. Nếu có người thọ trì đủ năm giới thì chẳng được gọi là người Ðại Thừa vậy. Chẳng thọ năm giới mà vì hộ trì Chánh pháp thì mới gọi là Ðại Thừa. Người hộ chánh pháp cần phải cầm dao kiếm, binh khí hầu hạ bảo vệ pháp sư !

Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu các Tỳ kheo cùng những Ưu bà tắc như vậy.v.v... cầm dao gậy thì chung làm bạn bè, làm gì có thầy ? Là không thầy ư ? Là trì giới ? Hay là phá giới ?

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp :

- Ông chớ gọi những người đó là người phá giới ! Này thiện nam tử ! Sau khi ta Niết Bàn, đời ác trược, đất nước hoang loạn, cướp lấy lẫn nhau, nhân dân đói khát. Bấy giờ, có nhiều người vì đói khát nên phát tâm xuất gia. Người như vậy gọi là người ngốc. Bọn người ngốc này thấy có vị Tỳ kheo trì giới uy nghi đầy đủ thanh tịnh hộ trì chánh pháp thì xua đuổi ra khỏi, hoặc giết hoặc hại họ.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Người trì giới này hộ Chánh pháp thì sao phải được du hành đến thôn xóm thành ấp để giáo hóa ?

- Này thiện nam tử ! Vậy nên, ta nay cho phép người trì giới nương vào những người bạch y (thế gian) cầm dao gậy vì là bạn bè. Nếu các quốc vương, đại thần, trưởng giả, ưu bà tắc.v.v... vì hộ pháp nên tuy cầm dao gậy nhưng ta vẫn nói rằng những người đó gọi là trì giới. Tuy cầm dao gậy nhưng chẳng nên đoạn dứt mạng sống, nếu có thể được như vậy thì liền được gọi là trì giới đệ nhất.

Này Ca Diếp ! Bàn về người hộ pháp thì đó là người chánh kiến đầy đủ, có khả năng tuyên nói Kinh điển Ðại Thừa rộng rãi, nhất định chẳng nắm giữ bảo cái của vua, bình dầu, lúa gạo... đủ thứ trái cây, chẳng vì lợi dưỡng mà thân cận, quốc vương, đại thần, trưởng giả, đối với các đàn việt lòng không dua nịnh quanh co, đầy đủ uy nghi, tiêu diệt hàng phục những người ác phá giới.v.v... Ðó gọi là thầy trì giới hộ pháp. Người hộ pháp có thể làm thiện tri thức chân chánh của chúng sinh. Lời thề rộng lớn của lòng họ ví như biển cả. Này Ca Diếp ! Nếu có Tỳ kheo do lợi dưỡng nên vì người khác nói pháp thì sở hữu đồ chúng quyến thuộc của người này cũng bắt chước thầy mình tham cầu lợi dưỡng. Người này như vậy là tự hủy hoại chúng. Này Ca Diếp ! Chúng có ba thứ, một là phạm giới tạp tăng, hai là ngu si tăng; ba là thanh tịnh tăng. Phá giới tạp tăng thì dễ bị hoại, trì giới tịnh tăng thì nhân duyên lợi dưỡng đã chẳng thể hoại. Sao gọi là phá giới tạp tăng ? Nếu có Tỳ kheo tuy giữ cấm giới nhưng vì lợi dưỡng nên cùng với người phá giới ngồi đứng đi lại, chung nhau cận kề, đồng sự nghiệp với người ấy. Ðó gọi là phá giới tăng, cũng gọi là tạp tăng. Sao gọi là ngu si tăng ? Nếu có Tỳ kheo ở tại chỗ A lan nhã mà các căn chẳng linh lợi, ám độn, đờ đẫn, ít dục, xin ăn, vào ngày nói giới và khi tự tứ, vị Tỳ kheo ấy dạy các đệ tử thanh tịnh sám hối, thấy kẻ chẳng phải đệ tử, phạm nhiều cấm giới, chẳng thể dạy bảo khiến cho thanh tịnh sám hối mà cứ cùng chung với họ nói giới, tự tứ. Ðó gọi là ngu si tăng. Sao gọi là thanh tịnh tăng ? Có Tỳ kheo tăng mà trăm ngàn ức ma chẳng thể hoại được. Chúng Bồ tát này bản tính thanh tịnh, có thể điều phục chúng của hai bộ phận như trên khiến cho họ an trụ ở trong chúng thanh tịnh. Ðó gọi là đại sư hộ pháp vô thượng, người giỏi trì luật. Vì muốn điều phục lợi ích cho chúng sinh nên người ấy biết tướng của các giới, hoặc khinh, hoặc trọng, chẳng phải là luật thì chẳng chứng tri còn nếu là luật thì liền chứng tri. Sao gọi là điều phục chúng sinh ? Nếu các vị Bồ táthóa độ chúng sinh nên thường vào tụ lạc, chẳng chọn thời tiết, hoặc đến nhà quả phụ và nhà dâm nữ cùng đồng dừng ở trải qua nhiều năm. Nếu là Thanh Văn, thì chẳng nên làm. Ðó gọi là điều phục, lợi ích chúng sinh. Sao gọi là biết trọng ? Nếu thấy đức Như Lai nhân việc chế ra giới rằng : “Ông từ nay thận trọng chớ lại phạm !” như bốn trọng cấm mà người xuất gia chẳng nên làm mà vẫn làm thì chẳng phải là Samôn, chẳng phải con của dòng họ Thích. Ðó gọi là trọng. Sao gọi là khinh ? Nếu phạm việc nhẹ, sau ba lần can ngăn như vậy nếu có thể bỏ thì đó gọi là khinh. Chẳng phải luật chẳng chứng là nếu có người khen nói vật chẳng thanh tịnh nên thọ dụng mà chẳng đồng chung dừng lại. Ðúng luật nên chứng là giỏi học giới luật, chẳng gần người phá giới, thấy có hành động thuận theo giới luật thì lòng phát sinh hoan hỷ. Như vậy có thể biết việc làm Phật pháp có thể giải thoát tốt lành. Ðó gọi là luật sư khéo giải một chữ, khéo giữ gìn khế kinh cũng lại như vậy. Như vậy, này thiện nam tử ! Phật pháp vô lượng chẳng thể nghĩ bàn ! Như Lai cũng vậy, chẳng thể nghĩ bàn.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Quả thật như lời dạy của đức Thánh ! Phật pháp vô lượng chẳng thể nghĩ bàn ! Như Lai cũng vậy chẳng thể nghĩ bàn ! Nên biết rằng, Như Lai thường trụ, chẳng hoại, không có biến dị ! Con nay học đã hoàn thiện, cũng sẽ vì người tuyên nói rộng rãi ý nghĩa đó !

Lúc bấy giờ, đức Phật khen Bồ tát Ca Diếp :

- Hay thay ! Hay thay ! Thân Như Lai tức là thân Kim Cương chẳng thể hoại ! Bồ tát cần phải học tốt chánh kiến, chánh tri như vậy. Nếu có khả năng thấy biết tỏ rõ như vậy thì tức là thấy được thân Kim Cương, thân chẳng thể hoại của Phật như thấy các sắc tượng ở trong gương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31380)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26259)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27569)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27956)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26747)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20313)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22997)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30113)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21641)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20315)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22707)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20812)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30376)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28839)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34782)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44264)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35566)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22592)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21410)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20720)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24801)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37980)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19100)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19373)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21865)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20905)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29558)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35209)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28863)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32637)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26272)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28977)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43198)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 35000)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 44015)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37946)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21363)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43072)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49052)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39899)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53834)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36858)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40861)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49779)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47369)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27794)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27059)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27258)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24102)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20886)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34350)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22522)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25164)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25902)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22996)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22516)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21784)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21211)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant