Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm văn tự

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 12883)
Phẩm văn tự

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ tám

PHẨM VĂN TỰ 

PHẦN XIII:

 

Ðức Phật lại bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Sẵn có đủ thứ dị luận, chú thuật, ngôn ngữ, văn tự... đều là Phật nói, chẳng phải ngoại đạo nói.

Ngài Ca Diếp Bồ tát bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là đức Như Lai nói về căn bản của chữ (tự)?

Ðức Phật nói rằng :

- Này thiện nam tử ! Ðầu tiên nói nửa chữ (bán tự) để làm căn bản giữ gìn những ký luận, chú thuật, văn chương, các thật pháp của ấm. Người phàm phu học căn bổn của chữ như vậy, vậy sau mới biết là pháp hay phi pháp.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Cái gọi là chữ thì nghĩa ấy ra sao?

- Này thiện nam tử ! Có mười bốn âm gọi là tự nghĩa. Cái gọi rằng chữ thì gọi là Niết Bàn, thường cố định chẳng trôi chảy. Nếu chẳng trôi chảy thì tức là vô tận. Phàm đã vô tận thì tức là thân Như Lai Kim Cương. Mười bốn âm này gọi là tự bản (gốc chữ). A ngắn là chẳng phá hoại mà chẳng phá hoại thì gọi là Tam Bảo, ví như Kim Cương. Lại nữa, A thì chẳng trôi chảy mà chẳng trôi chảy thì tức là Như Lai. Chín lỗ của Như Lai không có sự trôi chảy nên chẳng trôi chảy. Lại không có chín lỗ nên chẳng trôi chảy. Chẳng trôi chảy tức là thường còn mà thường còn tức là Như Lai. Như Lai không tạo tác nên chẳng trôi chảy. Lại nữa, chữ A thì gọi là công đứccông đức tức là Tam bảo. Vậy nên gọi là A. Tiếp đến là A dài thì gọi là A xà lê. A xà lê nghĩa là gì vậy? Nghĩa là ở trong thế gian được gọi là Thánh giả. Sao gọi là Thánh? Gọi là Thánh thì không nhiễm trước, thiểu dục, tri túc, cũng gọi là Thanh tịnh, có thể độ chúng sinh lưu chuyển trong bể cả sinh tửba cõi. Ðó gọi là Thánh. Lại nữa, chữ A gọi là chế độ, tu trì tịnh giới, thuận theo uy nghi. Lại nữa, chữ A gọi là nương (y) thánh nhân học theo uy nghi tiến, dừng, cử động, cúng dường, cung kính, lễ bái Tam Tôn, hiếu thuận, phụng dưỡng cha mẹ và học Ðại Thừa. Những thiện nam nử trì đủ cấm giới và các Ðại Bồ tát.v.v... đều được gọi là Thánh nhân. Lại nữa, chữ A gọi là Giáo hối (dạy răn). Như nói rằng : “Các ông nên làm như vầy ! Chớ làm như vầy !” Nếu người có thể ngăn chận những pháp chẳng phải oai nghi thì gọi là Thánh nhân. Vậy nên gọi là chữ A.

Chữ Y ngắn tức là Phật pháp, phạm hạnh rộng lớn, thanh tịnh không cấu bẩn ví như trăng tròn đầy. Các ông nên làm, chẳng nên làm như vậy, là nghĩa là phi nghĩa, đây là Phật nói, đây là ma nói, đó gọi là Y. Y dài là Phật pháp vi diệu thậm thâm khó được. Như pháp của trời Tự Tại, trời Ðại Phạm thì gọi là tự tại mà nếu người có thể trì giữ thì gọi là hộ pháp. Lại nữa, Tự tại thì gọi là bốn hộ thế. Bố tự tại này thì có thể nhiếp hộ Kinh Ðại Niết Bàn, cũng có thể trình bày diễn nói. Lại nữa, chữ Y là có thể vì chúng sinhtự tại nói pháp. Lại nữa, chữ Y là tự tại thì nên nói những gì đó vậy? Ðiều đó gọi là tu tập Kinh điển Phương Ðẳng. Lại nữa, chữ Y là đoạn dứt tật đố (ganh ghét) như diệt trừ cỏ xấu, khiến cho tất cả đều biến thành kiết tường (tốt đẹp). Vậy nên gọi là Y.

Chữ Ưu ngắn là ở trong Kinh, cái tối thượng, tối thắng, tăng trưởng lên trên hết thì gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, chữ Ưu là tính của Như Lai, điều chưa từng nghe của Thanh Văn, Duyên Giác, như tất cả xứ thì xứ Uất Ðan Việt phương Bắc là tối thù thắng. Bồ tát nếu có thể thính thọ Kinh này thì đối với tất cả chúng sinh là bậc tối thượng, tối thắng. Vậy nên gọi Ưu. Ưu dài là ví như sữa trâu so trong các vị là trên hết. Tính Như Lai cũng lại như vậy, ở trong các Kinh là tối tôn, tối thượng. Nếu có ai bài báng thì ông phải biết, người đó cùng với trâu không khác biệt. Lại nữa, chữ Ưu là người gọi là không có trí tuệ, chánh niệm mà bài báng Như Lai vi mật bí tạng thì phải biết là người đó rất đáng thương xót, xa lìa tạng bí mật của Như Lai mà nói pháp Vô ngã. Vậy nên gọi là Ưu.

Chữ Sẩn tức là các Phật pháp tính Niết Bàn. Ðó gọi là Sẩn. Dã là gọi nghĩa của Như Lai. Lại nữa, Dã là tiến dừng co duỗi, cử động của Như Lai không gì chẳng lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vậy nên gọi là Dã.

Chữ Ô là tên gọi nghĩa phiền nãophiền não gọi là các lậu. Như Lai vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não nên gọi là Ô. Pháo là gọi nghĩa Ðại Thừa, đối với mười bốn âm là nghĩa cứu cánh. Kinh điển Ðại Thừa cũng lại như vậy, đối với các kinh luận là tối cứu cánh. Vậy nên gọi là Pháo.

Am là có thể ngăn chặn tất cả các vật bất tịnh, ở trong Phật pháp, có thể xả bỏ tất cả vật báu, vàng, bạc. Vậy nên gọi là Am. Chữ A ( ) là gọi nghĩa Thắng Thừa. Vì sao vậy? Vì Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này ở trong các Kinh là tối thù thắng. Vậy nên gọi là A.

Chữ Ca là đối với các chúng sinh khởi lên Ðại Từ bi, sinh ra tử tưởng (tưởng là con) như La Hầu La, tạo tác nghĩa diệu thiện. Vậy nên gọi là Ca. Chữ Khư là gọi chẳng phải bạn lành mà chẳng phải bạn lành thì gọi là tạp uế, chẳng tin bí mật tạng của Như Lai. Vậy nên gọi là Khư. Dà là gọi tạng mà tạng tức là Như Lai bí tạng. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính nên gọi là Dà. Trọng âm Dà là âm thường còn của Như Lai. Những gì là âm thường còn của Như Lai? Ðó là Như Lai thường trụ bất biến. Vậy nên gọi là Dà (trọng âm). Chữ Nga là tất cả các hành tướng phá hoại. Vậy nên gọi là Nga.

Già tức là nghĩa của tu; điều phục tất cả các chúng sinh nên gọi là nghĩa của tu. Vậy nên gọi là Già. Xa là Như Lai che phủ tất cả chúng sinh ví như bảo cái lớn. Vậy nên gọi là Xa. Xà là chánh giải thoát, không có tướng già. Vậy nên gọi là Xà. Chữ Xà trọng âm là phiền não ràng rịt ví như rừng rậm. Vậy nên gọi là Xà (trọng âm). Chữ Nhã là nghĩa trí tuệ, biết tính pháp chân thật. Vậy nên gọi là Nhã. Chữ Tra là ở cõi Diêm phù đề thị hiện bán thân mà diễn nói pháp ví như bán nguyệt (nửa vầng trăng). Vậy nên gọi là Tra. Chữ Tha ( ) là pháp thân đầy đủ ví như vầng trăng tròn đầy. Vậy nên gọi là Tha. Chữ Trà là Tăng ngu si, chẳng biết thường cùng vô thường ví như đứa trẻ. Vậy nên gọi là Trà. Chữ Trà trọng âm là chẳng biết ơn thầy ví như con dê đen. Vậy nên gọi là Trà (trọng âm). Chữ Noa là chẳng phải là Thánh nghĩa ví như ngoại đạo. Vậy nên gọi là Noa.Chữ Ða là Như Lai ở đó bảo, các Tỳ kheo nên lìa khỏi kinh sợ, ta sẽ vì các ông nói pháp vi diệu. Vậy nên gọi là Ða. Chữ Tha là gọi nghĩa ngu si. Chúng sinh lưu chuyển trong sinh tử tự trói buộc như con tằm. Vậy nên gọi là Tha. Chữ Ðà là gọi rằng Ðại thí như là Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Ðà. Chữ Ðà trọng âm là xưng tán công đức. Ðó là Tam Bảo như núi Tu Di cao ngất rộng lớn, không có điên đão. Ðó gọi là Ðà. Chữ Na là Tam Bảo an trụ không có khuynh động ví như cái then cửa. Vậy nên gọi là Na. Chữ Ba là gọi nghĩa điên đão. Nếu nói rằng, Tam Bảo đều diệt hết thì phải biết là người này tự nghi hoặc. Vậy nên gọi là Ba. Chữ Pha là tai ách của thế gian. Nếu có người nói rằng, khi tai ách của thế gian khởi lên thì Tam Bảo cũng hết, phải biết là người đó ngu si, vô trí, trái lỗi Thánh chỉ. Vậy nên gọi là Pha. Chữ Bà là gọi mười lực của Phật. Vậy nên gọi là Bà. Chữ Bà trọng âm là gọi gánh nặng. Người đủ sức gánh vác Chánh pháp Vô thượng thì phải biết người đó là Ðại Bồ tát. Vậy nên gọi Bà. Chữ Ma là các Bồ tát với chế độ trang nghiêm cao vời, gọi là Ðại Bát Niết Bàn của Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Ma. Tà (gia?) là các Bồ tát ở tại khắp nơi nơi vì những chúng sinh nói pháp Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Tà. La là có thể hoại tan tham dục, sân nhuế, ngu si, nói pháp chân thật. Vậy nên gọi là La. Chữ La khinh âm (âm nhẹ) là gọi hàng Thanh Văn thừa chuyển động chẳng trụ, Ðại Thừa yên ổn không có khuynh động. Bỏ Thanh Văn thừa, tinh cần tu tập Ðại Thừa vô thượng. Vậy nên gọi là La (khinh âm). Chữ Hòa là Như Lai Thế Tôn vì các chúng sinh mưa xuống Ðại Pháp Vũ, gọi là kinh sách, chú thuật của thế gian. Vậy nên gọi là Hòa. Chữ Xa ( ) là xa lìa ba mũi tên (tam độc?). Vậy nên gọi là Xa. Chữ Sa là gọi nghĩa đầy đủ. Nếu người có thể nghe Kinh Ðại Niết Bàn này thì tức là đã được nghe và thọ trì tất cả Kinh điển Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Sa. Ta là vì các chúng sinh diễn nói chánh pháp, khiến cho lòng họ hoan hỷ. Vậy nên gọi là Ta. Ha là gọi tâm hoan hỷ khen : “Lạ thay ! Ðức Thế Tôn lìa khỏi tất cả hành! Lạ thay ! Ðức Như Lai vào Bát Niết Bàn !”. Vậy nên gọi là Ha. Chữ La là gọi Ma nghĩa. Vô lượng những ma chẳng thể hủy hoại Như Lai Bí Tạng. Vậy nên gọi là La. Lại nữa, chữ La là thậm chí thị hiện thuận theo thế gian, có cha mẹ, vợ con... Vậy nên gọi là La.

Lỗ, Lưu, Lô, Lâu, bốn chữ như vậy nói có bốn nghĩa là Phật, Pháp, Tăng và cả đối pháp. Nói đối phápthuận theo thế gian như Ðề Bà Ðạt Ða thị hiện hoại Tăng, hóa làm đủ thứ hình dáng sắc tượng Vì chế ra giới luật nên kẻ trí thông đạt biết rõ thì chẳng nên đối với việc này mà sinh ra kinh sợ. Ðó gọi là hành động tùy thuận thế gian. Do đó cho nên gọi là Lỗ, Lưu, Lô, Lâu.

Hít hơi vào cơ quan của lưỡi, theo tiếng của mũi, tiếng dài, ngắn vượt lên, tùy theo âm giải nghĩa, đều nhân vào lưỡi và răng mà có sai khác. Như vậy nghĩa của chữ có thể khiến cho chúng sinh thanh tịnh được khẩu nghiệp. Phật tính của chúng sinh thì chẳng ví với văn tự như vậy, rồi nhiên hậu thanh tịnh. Vì sao vậy? Vì Phật tính vốn tịnh, tuy ở tại trong ấm, giới, nhập mà chẳng đồng với ấm, giới, nhập. Vậy nên chúng sinh đều nên qui y. Các vị Bồ tát đều do Phật tính nên nhìn chúng sinh bình đẳng, không có sai biệt. Vậy nên “bán tự” đối với các kinh sách, ký luận, văn chương mà lấy làm căn bản. Lại, ý nghĩa của “bán tự” đều là nguồn gốc của lời nói phiền não nên gọi là “bán tự”. “Mãn tự” (chữ đầy đủ) thì mới là căn bản của tất cả lời nói thiện pháp vậy. Ví như người thế gian làm hạnh ác thì gọi là bán nhân (nửa người). Người tu hạnh thiện thì gọi là mãn nhân (người đầy đủ). Như vậy tất cả kinh sách, ký luận đều nhân vào “bán tự” mà làm căn bản. Nếu nói rằng, Như Lai và chánh giải thoát vào với “bán tự” thì việc đó chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì lìa khỏi văn tự. Vậy nên Như Lai đối với tất cả pháp không ngăn ngại, không nhiễm trước, thật sự được giải thoát. Những gì gọi là giải rõ nghĩa của chữ? - Có người biết Như Lai xuất hiện ở đời có thể diệt “bán tự”. Vậy nên gọi là giải rõ nghĩa của chữ. Nếu có người theo đuổi nghĩa của “bán tự” thì người đó chẳng biết tính Như Lai. Cái gì gọi là Vô tự nghĩa? Người gần gũi tu tập pháp bất thiện thì đó gọi là “Vô tự” (không chữ). Lại, vô tự là tuy có thể gần gũi tu tập thiện pháp nhưng chẳng biết Như Lai thường cùng vô thường, hằng cùng phi hằng và Pháp, Tăng hai báu, luật cùng phi luật, kinh cùng phi kinh, ma nói, Phật nói... Nếu có người chẳng thể phân biệt như vậy thì đó gọi là theo đuổi nghĩa “vô tự” vậy. Ta nay đã nói về sự theo đuổi nghĩa “vô tự” như vậy. Này thiện nam tử ! Vậy nên ông nay nên lìa khỏi “bán tự”, khéo lý giải “mãn tự”.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con cần phải giỏi học tự số ! Con nay đã gặp được bậc thầy Vô thượng, đã chịu lời dạy bảo ân cần của đức Như Lai !

Ðức Phật khen ngài Ca Diếp rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Người ưa Chính pháp thì nên học tập như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31347)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26230)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27538)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27932)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26727)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31245)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20282)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22968)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30079)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21597)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20284)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22685)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20783)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30339)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28803)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34746)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44249)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35541)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22565)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21386)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20702)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24773)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37937)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19074)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19355)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21850)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20890)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29535)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35164)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28842)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32621)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26235)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28942)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43167)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34979)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43959)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37925)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21343)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43040)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39864)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53801)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36834)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40829)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49743)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47332)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27747)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27038)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27245)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24082)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20865)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34327)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22487)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25138)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25861)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22966)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22477)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21769)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23329)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant