Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thay lời kết

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15967)
Thay lời kết


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

THAY LỜI KẾT

Xin mượn lời kết luận của pháp sư Văn Châu để kết thúc cuốn Hợp Giải này:

“Bút giả trộm nghĩ: Chẳng nghe, chẳng biết đến kinh này, nên chẳng tín, chẳng hạnh, chẳng nguyện thì tuy là đáng thương, nhưng vẫn còn có thể chấp nhận được. Chứ ai đã được nghe, xem đọc kinh này, đã biết pháp môn Niệm Phật thù thắng như thế ấy, nhưng nghe mà chẳng tin, hoặc tin nhưng chẳng nguyện, chẳng hạnh, thì chẳng những chỉ phụ bạc đấng Thích Tôn là đấng đã thực hiện được việc khó này, đã nói pháp khó tin này; mà còn là phụ bạc chính mình, lãng phí kiếp sống này vậy!

Phải biết rằng: Chúng ta sống gởi trong cõi Sa Bà, ngoài thì bị việc người vùi dập, khiến cả thân lẫn tâm đều bị tổn thương; trong thì phiền não gây khốn đốn, bệnh tật vây hãm, khổ thật chẳng thể nói nổi. Nay được nghe diệu pháp này, khác nào bệnh nặng liệt giường, chợt được thần lực, kẹt ở đất khách lâu ngày, chợt gặp thuyền bè...

Cổ nhân nói:

Cấp cấp mang mang khổ khổ cầu,

Hàn hàn noãn noãn độ xuân thu,

Triêu triêu mộ mộ doanh gia kế,

Muội muội hôn hôn bạch liễu đầu,

Thị thị phi phi hà nhật liễu,

Phiền phiền não não kỷ thời hưu,

Minh minh bạch bạch nhất điều lộ,

Vạn vạn thiên thiên bất khẳng tu

(Tạm dịch:

Gấp gáp bộn bề khổ nhọc cầu,

Lạnh nồng đã trải mấy xuân thâu,

Sáng trưa chiều tối lo gia sự,

Mờ mịt, u mê bạc trắng đầu,

Ðúng đúng, sai sai phân biện mãi,

Phiền phiền não não dễ ngừng đâu?

Một con đường chánh luôn ngời rạng,

Ngàn vạn muôn phần chẳng chịu tu!)

Ðáng tiếc biết bao!

Phải biết rằng:

Nhất cú Di Ðà tối phương tiện,

Bất phí công phu, bất phí tiền,

Ðản giao nhất niệm vô gián đoạn,

Hà sầu bất đáo pháp vương tiền.

(Một câu Di Ðà phương tiện mầu,

Nào tốn công phu, chẳng tốn xu,

Cốt sao nhất niệm đừng gián đoạn,

Sanh trước pháp vương há phải sầu?)

Hoặc có người bảo: ‘Ta nay đang lúc tráng niên, phải dốc tâm lo sự nghiệp, làm sao niệm Phật được?’ Nào có biết rằng: Sự có thành, hoại, hưng, suy, nhưng thời gian đã qua chẳng hề trở lại, tuổi trẻ khôn tìm lại, một mai vô thường xảy đến, có hối cũng muộn rồi! Cổ nhân nói:

Mạc đạo lão niên phương học đạo,

Cô phần đa thiểu thiếu niên nhân.

(Chớ bảo đến già toan học đạo,

Mồ hoang bao kẻ tuổi đầu xanh)

...Liên Trì Ðại Sư nói rất hay:

‘Pháp môn Niệm Phật bất luận nam, nữ, Tăng, tục, quý, hèn, hiền, ngu, không có một ai là chẳng niệm Phật được! Nếu là người phú quý, của cải dư dả thì đúng là phải niệm Phật. Nếu là kẻ bần cùng, nhà hẹp, của ít thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là người có con cháu, việc cúng bái tổ tiên đã có chỗ nhờ cậy thì rất nên niệm Phật. Nếu là người không con, trơ trọi một thân tự do thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai có con hiếu thuận, yên hưởng con cái phụng dưỡng thì rất nên niệm Phật. Nếu ai có con ngỗ nghịch, chẳng sanh lòng yêu thương thì thật đúng là phải niệm Phật. Nếu ai vô bịnh, thân thể khỏe mạnh thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai có bịnh, rất gần cơn vô thường thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai già cả, tháng ngày chẳng còn mấy thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai tuổi trẻ tinh thần sáng suốt thì thật là rất tốt để niệm Phật. Nếu ai an nhàn, tâm không bị sự gì khuấy động thì thật đúng là nên niệm Phật. Nếu là người bận rộn, được đôi lúc nhàn giữa khi bận rộn thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là người xuất gia, tiêu dao ngoài cõi đời thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là kẻ tại gia biết cõi đời đúng là nhà lửa thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai thông minh, thông hiểu Tịnh Ðộ thì rất nên niệm Phật. Nếu là kẻ ngu si, thô lỗ, không làm gì khác nổi thì thật đúng là nên niệm Phật. Nếu ai trì luật mà Luật lại do Phật chế ra; vì thế, rất nên niệm Phật. Nếu ai đọc kinh thì kinh là do Phật dạy, càng phải nên niệm Phật. Nếu ai tham thiền thì do Thiền là tâm Phật nên càng phải nên niệm Phật. Nếu ai ngộ đạo thì ngộ cần phải được Phật chứng; cho nên càng phải niệm Phật.

Khuyên khắp mọi người hãy cấp bách niệm Phật. Chín phẩm vãng sanh, hoa nở thấy Phật, gặp Phật nghe Pháp, rốt ráo thành Phật mới biết rằng tâm vốn dĩ là Phật’.

Ðọc lời này rồi thì còn có thể vin vào đâu để khỏi niệm Phật được chăng? Ấn Quang Ðại Sư nói: “Vô thường nhanh chóng, đường luân hồi hiểm nguy, già giặn, chắc thật niệm Phật, đừng thay đổi đề mục”. Nguyện những ai nghe đến, đọc đến những lời này hãy gắng lên!”

 

A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI HẾT

Phật lịch 2547, ngày 30 tháng 09 năm 2003

 

(1) Tam đồ, bát nạn: Tam đồ hay còn gọi là Tam Ác Ðạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Bát nạn: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Trường Thọ Thiên (trong cõi trời này tâm tưởng không vận hành, không suy nghĩ, hay biết, tham đắm trong Vô Tưởng Ðịnh), sanh trong Bắc Câu Lô Châu (Uất Ðan Việt, quá sung sướng nên tham đắm hưởng lạc, không nghĩ gì đến đạo pháp), điếc - đui - câm - ngọng, thế trí biện thông (thông minh lanh lợi, biện bác nhạy bén, nhưng chỉ tin kinh sách ngoại đạo, không tin nhân quả), sanh trước Phật hay sau Phật. Tám nạn này trở ngại cơ duyên gặp Phật, nghe pháp tu hành nên gọi là Nạn.

(2) Ngũ trụ: nói cho đủ là Ngũ Trụ Ðịa Hoặc. Tức là:

- Kiến nhất thiết xứ trụ địa: kiến hoặc trong ba cõi như thân kiến, biên kiến....

- Dục ái trụ địa: phiền não trong cõi Dục, tức là phiền não do đắm trước Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.

- Sắc ái trụ địa: phiền não ở cõi Sắc do đắm trước sắc thân của chính mình.

- Hữu ái trụ địa: phiền não ở cõi Vô Sắc, tức là phiền não chấp trước do yêu mến tự thân.

- Vô minh trụ địa: tất cả vô minh trong ba cõi

(3) Thỉ Giác trí: Phật tánh ai ai cũng sẵn có gọi là Bổn Giác Trí. Do công năng tu tập, phiền não đoạn diệt thì Phật tánh mới hiển hiện. Phật tánh được hiển hiện đó gọi là Thỉ Giác Trí.

(4) Bách giới thiên như: Theo tông Thiên Thai, có mười giới: từ ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục.. cho đến chư Phật. Trong mỗi giới lại có đủ mười giới, nên 10 x 10 = 100 giới. Trong mỗi giới lại có mười môn như thị; như thị tướng, như thị thể, như thị tánh.. (xem kinh Pháp Hoa) nên thành ra một ngàn như. Tông Thiên Thai dùng chữ “bách giới thiên như” để chỉ tất cả các pháp.

 

 (*) Nếu ước theo Hiền kiếp, chu kỳ của cõi Sa Bà tổng cộng 80 tiểu kiếp, gồm bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn dài 20 tiểu kiếp, phân ra như sau:

- Giai đoạn Thành: cõi đại địa, trời Lục Dục, Sơ Thiền v.v... thành lập.

- Giai đoạn Trụ: Ðại địa đã thành, chúng sanh an trụ. Trong tám tiểu kiếp đầu, không có Ðức Phật nào xuất thế. Trong kiếp thứ chín, khi thọ mạng giảm đến sáu vạn năm, đức Câu Lưu Tôn Phật xuất thế. Khi tuổi thọ giảm còn bốn vạn năm, Ðức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni xuất thế. Khi thọ mạng giảm còn hai vạn năm, Ca Diếp Phật xuất thế. Khi thọ mạng vừa đúng trăm năm, Phật Thích Ca xuất thế.

Trong đại kiếp thứ mười, khi tuổi thọ chỉ còn tám vạn năm, Ðức Phật Di Lặc xuất thế. Trong bốn tiểu kiếp tiếp đó, không có Phật xuất thế. Trong kiếp thứ mười lăm, có chín trăm chín mươi bốn Ðức Phật nối nhau xuất thế. Trong bốn kiếp tiếp đó, không có Phật xuất thế. Trong kiếp thứ 20, sau khi Ðức Phật tối hậu là Phật Lâu Chí nhập Niết Bàn, thế giới Sa Bà bước vào Hoại kiếp.

- Giai đoạn Hoại: Hỏa tai cháy tan đến tận trời Sơ Thiền.

- Giai đoạn Không: Từ trời Sơ Thiền trở xuống, không còn gì nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31359)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26237)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27551)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27943)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26741)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31254)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20293)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22979)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30094)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21606)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20291)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22696)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20796)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30362)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28822)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34771)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44254)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35552)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22571)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21398)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20715)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24785)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37950)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19092)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19357)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21856)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20897)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29542)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35189)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28849)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32629)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26254)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28960)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43180)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34989)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43983)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37933)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21351)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43049)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49039)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39882)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53817)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36842)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40835)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49755)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47350)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27772)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27044)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27248)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24084)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20872)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34338)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22505)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25146)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25876)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22979)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22482)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21773)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23346)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21202)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant