Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương V: Việc làm Ba La Mạt Đa

07 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10091)
Chương V: Việc làm Ba La Mạt Đa


Chương V: VIỆC LÀM BA LA MẬT ĐA

1. Thẳng Thắn
Làm việc thế nào mới tốt?
Mọi người cần cùng nhau chung sức làm. Không phải bạn nói ngoài miệng, sai khiến kẻ khác làm; đó là thái độ cần tránh. Hãy từ tốn, ôn hòa giải thích cặn kẽ công việc, cách làm, cho người nghe hiểu rõ ràng. Ví như giải thích việc trồng hoa mà y không hiểu, bạn hãy làm cho y thấy; nếu không vậy thì công việc sẽ không thông suốt, cả bạn và y đều sanh phiền não.
Khi sư-huynh, sư-đệ làm việc chung, hay khi phân phối công tác, các bạn phải dựa vào tinh thần Phật Pháp mà làm--phải lịch sự, lễ độ.
Ðừng nên lớn tiếng ra lệnh, sai cái này, chỉ cái nọ... như là cha sai con, chủ sai tớ; đó là cách thế tục, không tốt!
Ðừng sợ mích lòng kẻ khác.
Bạn làm quản lý thì phải ráng làm cho tốt. Hễ điều gì cần nói thì phải nói; chớ vì tình cảm riêng tư (việc cần nói mà không nói), để tránh mắc cái lỗi trồng nhân sai lầm.
Làm quản lý không phải dễ. Do đó hễ Thầy Quản-lý giao phó bạn chuyện gì--bất kể tốt, xấu--bạn hãy vui vẻ tiếp nhận, đừng nổi nóng. Như vậy, đầu óc mới sáng suốt.
Ðiều tốt thì lượm về học, điều xấu thì vất một bên. Trong lòng thấu suốt rõ ràng là đủ. Cứ theo đây để tu hạnh Nhẫn-nhục Ba-la-mật.
Khi tu hành, bạn đừng hỏi "đúng" hay "sai", cũng đừng quan tâm "có lý" hay "vô lý." Ðó là điểm khác biệt giữa người xuất giatại gia.
Các bạn hãy nỗ lực tu hành. Có vấn đề khó khăn thì hỏi Sư-Phụ, tôi sẽ giải đáp cho.
Thầy Quản-lý nói bạn làm sao, bạn cứ làm vậy. Với thái độ này, đầu óc bạn sẽ không nghĩ ngợi lăng xăng; và như thế, sẽ dễ dàng tu hành.
Nếu Thầy Quản-lý nói bạn làm việc mà Thầy lại làm sai, thì bạn chớ tranh cãi, cứ thuận theo ý Thầy mà làm; tự nhiên bạn sẽ thể hội được chân lý chuyện này.
Việc gì không rành rẽ, bạn nên hỏi Sư-Phụ hay sư-huynh.
Ðừng vì sợ mất mặt, rồi tự mình đặt bày làm càn.
Mục đích bạn làm việc là để tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình, không phải làm cho kẻ khác. Khi nhiều người làm chung, hễ ai không biết, bạn hãy chỉ bảo cho người ấy. Nếu y làm không giỏi, bạn hãy tận tình giúp đỡ y.
Ðừng nên phân chia ranh giới giữa mình và người quá rõ rệt (đây là việc "của tôi", kia là việc "của anh"). Hễ người nào không làm, bạn chớ nổi nóng, bực dọc, mà nên vui vẻ làm thay cho người ấy. Hãy luôn luôn có lòng từ bi (độ lượng, biết tha thứ)!
Khi làm việc gì, bạn chớ tính toán lợi hại riêng tư.
Hễ thấy việc gì làm chưa xong chưa tốt, bạn hãy tới làm. Ðừng nói gì tới kẻ khác (chỉ trích, cật vấn sao anh không chịu làm...), vì công đức của việc làm là thuộc về bạn. Nếu bạn cứ nói tới người khác thì chỉ tạo thêm khẩu nghiệp.
Làm việc là cách để mình tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình, chứ không phải làm giùm ai khác.
Làm việc gì mình cũng sẵn lòng tình nguyện (không phải bị bắt buộc mới chịu làm), thì trí huệ sẽ phát triển.
Việc làm công quả ở chùa hoàn toàn "vô điều kiện" (không ai bắt ép, không ai yêu cầu, bạn muốn thì tình nguyện làm); do đó, khi đã làm bạn chớ oán than, trách móc.
Việc của mình thì mình cố gắng làm; đừng sai kẻ khác, khiến họ bực dọc. Làm cho người ta bực bội, khó chịu, thì mình sẽ không có công đức gì cả. Trường hợp người ta tự ý đặc biệt tới giúp mình thì khác.
Ðừng chấp trước gì cả, chuyện gì cũng tùy duyên.
Khi có Thầy hay sư-huynh lại giúp bạn, nếu bạn cảm thấy e ngại, sợ rằng tổn phước, hoặc nghĩ là không xứng đáng để người ta giúp đỡ, hoặc bạn sợ để người ta giúp mình thì họ sẽ hưởng hết phước đức; những ý tưởng như thế đều là chấp trước.
Muốn kẻ khác có phước, trước hết, mình phải có phước thì mới nhường cho họ được chứ!
Thầy Quản-lý vì có lòng quan tâm lo lắng cho mình, nên Thầy mới quở trách mình, vạch rõ lỗi làm của mình cho mình biết.
Thầy ấy chính là bậc Thiện-tri-thức--người chỉ đường tu.
Ðừng vì bị mắng một tiếng mà liền khó chịu, bực dọc, sinh phiền não.
Bạn hãy luôn vui vẻ tiếp nhận lời chỉ bảo, khuyên lơn, khuyến khích (hay phê bình, chỉ trích) của người khác. Ðừng bao giờ phản kháng, ương ngạnh, bất phục; rồi kết đảng phân phái, kình chống, thù hằn nhau.
Ví dụ bạn lau chùi bàn ghế, Sư-Phụ nói bạn hãy lau chùi lại lần nữa, bạn có thể nghĩ rằng: "Tôi đã chùi sạch như vầy rồi, sao Thầy còn bắc tôi chùi lại nữa?" Ðó là thứ suy tư của người đời, thế tục.
Tu hành thì bạn cần có tâm thẳng thắn: "Dạ! Con sẽ lau lại ngay!" Ðây cũng là một thứ thử thách lòng bạn, xem bạn có tu tâm hay không. Do đó, tu hành quý ở trực tâm--tâm thẳng thắn. Ðây chính là cách làm việc của người xuất gia.
Nếu bạn biết làm việc, thì đi đâu bạn cũng tự tại.
Hãy tận tình với trách nhiệm.
Nếu cứ ăn no rồi làm biếng, không tròn bổn phận, thì khi phước báo cạn hết, nghiệp chướng ập tới, tự nhiên bạn sẽ không thể ở chùa nổi (tức là phải hoàn tục)!

2. Nhẫn Nại

Làm việc lao tác là để rèn luyện chính mình. Do đó, chỉ cần bạn làm, là biết bạn như thế nào. Khi làm việc mà bạn biết bạn như thế nào. Khi làm việc mà bạn chuyên tâm, thì đến lúc học Phật, niệm Phật, bạn cũng chuyên tâm; bạn sẽ tự thấy thấu suốt. Ví như khi quét dọn, ở đâu chưa sạch, dù là còn chút xíu bụi, bạn cũng tự biết, chẳng cần ai nói ra. Nhờ tánh chuyên tâm chú ý, nên bất kỳ việc gì, chỉ cần nghe qua một lần là bạn tự biết cách làm, và làm tốt.
Làm việc lao tác, bạn cần biết nhẫn nại.
Ví như khi quét dọn lau chùi, bạn làm thật sạch sẽ; thì đó cũng giống như bạn đã lau chùi tâm mình sạch sẽ, thanh tịnh vậy.
Hãy vừa làm vừa niệm Phật, không nên lơ là, phóng dật.
Ðừng để ý thức, tâm tư, chạy lăng xăng thì thân, miệng, ý mới thanh tịnh.
Khi làm gì, bạn hãy cẩn thận làm cho chu đáo, hoàn hảo việc ấy. Ðừng nên tham lam, việc gì cũng làm, rồi kết quả là không việc nào xong cả!
Việc gì cũng phải nhẫn nại; niệm Phật cũng thế. Cứ từ từ tu thì tâm sẽ hết phiền não; sau này sẽ không khác gì Ðức Phật A-Di-Ðà; vô cùng tự tại!
Làm gì cũng chớ có lòng chấp trước, cố chấp.
Có lúc gặp phải chuyện gì đó, mình muốn làm cho thật hoàn mỹ, thật lý tưởng; rồi quên bẵng người khác, không để ý tới họ. Ðó là mình quá chấp trước vào công việc, quá truy cầu (thành công).
Mỗi ngày làm việc gì, hãy làm cho rõ ràng, với tâm lúc nào cũng hướng về Phật, cũng trên đường Ðạo. Như vậy thì quét rác bạn cũng có thể ngộ Ðạo, vì tâm bạn lúc ấy chính là đang quét bụi bặm vô minh!
Các bạn làm việc biên chép sổ sách giấy tờ (tại văn phòng của chùa) thì kết được thiện-duyên rất lớn với chúng sanh; khác hẳn với người đời khi họ cũng làm việc ở văn phòng hay công sở. Công đức của bạn cũng bằng với công đức tụng công-phu buổi chiều vậy; cho nên bạn chớ so sánh rồi sanh lòng bực bội, phiền não.
Ðừng nên chấp trước vào hình sắc, tướng trạng; cũng đừng câu nệ chuyện ăn mặc, không vừa ý cái này, chẳng ưng ý cái kia. Nếu không, rốt cuộc bạn đã chẳng làm được việc gì giúp chùa mà lại còn bị áo quần, ăn mặc lôi cuốn.
Mình cần xả thân làm bất kỳ việc gì cho chùa.
Nếu quá lo lắng gìn giữ cái thân này, thì khó mà tu phước đặng; ngược lại, còn bị cái "túi da" thối tha này lừa mình nữa.
Cứ theo lời tôi mà tu hành; vừa làm vừa niệm Phật.
Trừ hết chấp ngãchấp pháp, thì trí huệ mới khai mở. Trí huệ thì không có sắc tướng gì cả, không thể sờ mó, cầm nắm nó đặng. Song, nếu trí huệ khai mở, tuy mình không biết, nhưng hễ gặp việc gì, nhìn qua là mình thấu triệt, biết phải làm gì ngay. Ðó là trí huệ thật vậy!
Việc niệm Phật phải được phối hợp với việc làm. Niệm Phật cho đến lúc tâm yên tĩnh, thì lúc ấy chính là tự tánh mình niệm, tức là nhất tâm rồi đó. Khi làm việc, cũng cứ niệm Phật; mà kẻ khác thì không biết là mình đang niệm. Cứ chuyên tâm làm việc, đừng khởi vọng tưởng hay nghĩ ngợi gì khác, thì đó mới là nhất tâm, cũng là tâm Phật, hợp với Phật Ðạo vậy.
Chỉ khi có chánh niệm thì điều gì mình biểu hiện hay làm ra mới mang tánh cách từ bi; quan điểm mình có cũng tự nhiênchín chắn, đúng đắn. Ðây cũng là tâm Phật vậy.

3. Khéo Léo

Hỏi: Sư-phụ nói rằng chúng con không nên chấp trước. Nhưng nếu không chấp trước, thì công việc làm sao làm tốt đặng?
Ðáp: "Không chấp trước vào công việc" không có nghĩa là chểnh mãng, lơ là, thiếu trách nhiệm, bê bối, cẩu thả; cũng không phải là làm thục mạng, cắm đầu cắm cổ làm quá trớn; mà nghĩa là làm việc gì xong rồi thì coi như không có gì xảy ra cả.
Khi lòng bạn còn để ý, còn quái ngại, lo nghĩ về công việc, không buông xả được; thì đó là chấp trước. Khi làm việc với thái độ không chấp trước, thì mới làm tốt đặng. Hễ chấp trước, việc làm sẽ không tốt được; vì chấp trước thì thiếu trí huệ, mà làm việc cũng còn cần phải có Ðịnh-lực, cần phải có sự tập trung, chuyên chú nữa!
Làm việc gì cũng cần dùng trí óc, suy tư cho thấu triệt; chứ không phải ai nói sao thì mình cứ y lời mà làm theo một cách cứng ngắc (câu nệ, không biết uyển chuyển vận dụng).
Cần phảinăng lực phán đoán, biện biệt; đừng như con chó ngu dốt, thấy người ta quăng cục đá, nó không biết là quăng cái gì mà cũng chạy theo tha về!
Làm gì cũng phải định trước kế hoạch; chớ có bê bối cẩu thả, làm qua loa lấy lệ rồi thôi!
Phải xử lý những công việc và những đồ đạc trong chùa thật thích đáng, viên mãn. Như trồng một khóm cây, nếu bạn không quyết định kịp thời để trồng cho đúng lúc, thì cây sẽ chết khô; lúc ấy, lỗi lầm là ở bạn.
Bớt dùng trí óc--nhưng không có nghĩa là đừng suy nghĩ về công việc, mà có nghĩa là việc gì tới tay, làm xong rồi thì thôi!
Ðừng nên khởi tâm phân biệt (bàn bạc, khoe khoang, than vãn...), làm sanh ra đủ chuyện thị phi (tranh chấp, cãi cọ, lý luận...).
Ðối với công việc thì như vậy; đối với người khác thì cũng lại như thế!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29901)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22237)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23614)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20432)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24760)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18994)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23996)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21330)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23233)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38143)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19991)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19054)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23176)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22929)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29591)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20648)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18714)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15850)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19691)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20161)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22953)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34184)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16426)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16923)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20105)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18864)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24070)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30970)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21015)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26862)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26269)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30049)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20232)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20411)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15147)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15842)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23912)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant