Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VI: Hạnh Xuất Gia

07 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 9979)
Chương VI: Hạnh Xuất Gia


Chương VI: Hạnh Xuất Gia
1. Xuất Gia Ðể Làm Gì?
Ðã xuất gia rồi, bạn phải hiểu ý nghĩa của việc đi tu. Bạn phải tự chủ; chớ để kẻ khác xỏ mũi lôi đi. Việc cần nghe thì nghe; việc chẳng đáng nghe, đừng nghe; mỉm cười là đủ.
Hãy thường nhìn thủng tấm áo nâu sòng, tự sờ đầu trọc, mà cảnh giác chính mình: "Ta là tăng-sĩ!" Nếu không làm vậy, đôi khi bạn quên phắt, bất giác để tâm chạy rông, không còn là tâm của kẻ xuất gia nữa.
Sáng vừa thức dậy, bạn hãy lập tức sờ đầu mình, tự hỏi: "Vì sao tôi đi tu?"
"Vì liễu sanh thoát tử, vì chấm dứt luân hồi!"
Tu cho có đức hạnh là điều quan trọng nhất.
Ở chùa để làm gì? Chính là để tu đức hạnh, tu cái bản lai diện mục.
Bạn cứ xem xét những thứ chung quanh Sư-Phụ thì sẽ hiểu ngay. Nghe xong việc gì, bạn cũng phải cố thể hội, chớ để thoáng qua tai.
Những Tăng, Ni trẻ tuổi thì tình cảm còn nặng nề lắm. Song, thân đi tu thì đầu óc cũng phải đi tu. Ba nghiệp thân, miệng, ý của người xuất gia thì hoàn toàn khác hẳn của kẻ tại giạ Bạn phải biết làm sao để liễu sanh thoát tử. Mục đích mình tu, điều mà mình đeo đuổi, chính là thoát khỏi vòng sanh tử!

2. Con Ðường Siêu Thoát Của Người Tu

A. Trước và Sau Khi Thọ Giới

Chưa hiểu thông Phật Pháp mà đã thọ Giới, thì rất dễ sanh tâm cống cao, ngã mạn.
Bạn chớ mù mù mờ mờ xuất gia, rồi mù mù mờ mờ thọ Giới. Thọ Giới là vì cầu sám hối, không phải là lết cái thây đi, lết cái thây về.
Khi ở Giới-đàn, bạn hãy ít nói, ít cùng người khác trao đổi (hay phan duyên). Hễ có thì giờ thì hãy lạy Phật, niệm Phật.
Ở Giới-đàn, người cầu thọ Giới tới từ mọi nơi, nên luôn luôn đông nghẹt. Phải nhớ rằng, mình đến đây không phải để thi đua với họ xem ai mặc đẹp hơn, ở tốt hơn, hay ăn ngon hơn!
Khi đi thọ Giới, nếu bạn chịu khó, nhẫn nại, thì sẽ nhập Ðạo được.
Phàm chuyện gì (ở Giới-đàn) cũng rất đơn giản; bạn chớ cùng kẻ khác so sánh xem ai ăn ngon, ngủ tốt, hoặc chuyện này ra sao, chuyện nọ thế nào... Thọ Giới là lúc học oai nghi, quy củ; chứ không phải là lúc bàn luận, nói chuyện thị phi, tạo khẩu nghiệp.
Sau khi đã thọ Giới, bạn phải hoàn toàn khác biệt so với lúc chưa thọ Giới--lấy Giới làm Thầy, làm thêm nhiều khổ-hạnh, quét sạch, sửa đổi hết mọi thói hư tật xấu, dứt tuyệt mọi ý nghĩ xấu ác.
Bạn phải luôn thường tụng Giới; như vậy mới không có những thứ ái tình yêu đương lăng nhăng.
Giới Luật câu thúc, kềm giữ, thì bạn mới không dễ làm điều sai, chuyện quấy.
Thọ Giớithọ sự nhẫn nhục. Khi tai bạn nghe người ta chưởi rủa hay khiêu khích, chọc tức mình, mà bạn chẳng để tâm vào, thì đó chính là Giới.
"Giới" là giới nội (tự răn chế mình), chứ không phải là giới ngoại (kềm chế kẻ khác).
Ngay lúc lòng bạn vừa dấy lên một ý niệm xấu ác, bạn hãy dùng Giới Luật để ngăn chận nó lại. Ðó gọi là lấy Giới làm Thầy.
Cần phải học thuộc Tỳ-Ni Nhật Dụngứng dụng hằng ngày.

B. Vất Bỏ Danh Lợi

Khi chưa thọ Giới, vì không biết quy củ, Giới Luật, nên bạn có phạm Giới; đó là không cố ý. Nay đã thọ Giới; hiểu Giới mà phạm Giới, thì đó là cố ý. Tội này nặng lắm. Thọ Giới rồi thì phải giữ Giới, hảy y theo Giới Luậttu hành.
Thọ Giới không phải là thọ mấy cái giới-ba (cái dấu đốt trên đầu). Giới là ở tâm. Do đó, khi biết mình làm điều gì sai quấy, hãy lập tức sám hối. Khi bạn trì Giới đàng hoàng, thì sẽ không còn tướng (hay quan niệm về) nam nữ nữa.
Thọ Giới rồi thì phải đem Giới ra thực hành. Không phải thọ Giới xong là lên chức Ðại Ðức, Ðại Pháp-sư. Giữa người tu với nhau không hề có sự phân chia cao thấp.
Có nhiều kẻ đi thọ Giới lại học được thêm lòng tham lam. Ðến khi về chùa thì trở nên ham hưởng thụ, thích ăn ngon, mặc đẹp, ở chỗ tốt; không còn biết gì về dũng mãnh, tinh tấn nữa.
Trong Giới Luật có dạy rõ quy củ của mọi việc, đến cả việc của Thầy Chấp-sự. Bạn phải học, đọc cho thấu đáo, thì mới không dễ phạm sai lầm; và sau này nếu có ra làm chấp-sự, bạn mới làm việc tốt đặng.
Giới là để răn chính mình; do đó, cầu sám hối cũng là Giới.
Giữ Giới, nhưng đừng đi tới chỗ cực đoan, chấp trước. Nếu không, tuy mình có ý giữ Giới mà kết quả lại là bị Giới đẩy văng đi. Bởi vì, giữ Giới thì không sanh phiền não (làm cho mình hoặc người khác phiền não, đau khổ) và không xung đột với kẻ khác.
Khi bạn có tướng mình, tướng người (phân biệt ranh giới giữa tôi và anh, của tôi và của anh), chắc chắn bạn sẽ dễ gặp tranh chấp. Tới chùa xuất gia, không phải là để đấu tranh, cãi vã. Xuất gia thì phải "thống lý đại chúng", hòa hợp với mọi người; được vậy thì ai cũng tốt.
Tới chùa xuất gia, không phải là để tranh chấp coi ai đúng ai sai. Thái độ đó rặt là thứ thế tục, lúc nào cũng chia ra mình và người.
Ðã xuất gia tu hành thì không cạnh tranh, ganh đua, cũng không cãi vã hơn thua, ít nhiều, đúng sai...; mấy thứ đó toàn là "mùi" danh lợi.
Khi Hòa-Thượng nói: "Người xuất gia không được tham danh hám lợi. Vì hễ có lợi tất sẽ có hại, do đó, không được nuôi dưỡng lòng ham muốn danh lợi"; thì có người hỏi: "Vậy như hiện nay, danh tiếng của Sư-Phụ vang lừng bốn biển thì sao?"
Hòa-Thượng trả lời: "Ta cũng không hề hay biết gì tới nó, vì chúng đều là huyễn hóa. Không ai biết gì về mình là hay nhất!"
Người hỏi gật gù: "Ðó mới chính là công phu chân thật!"

C. Ðiều Cái Tâm Này!

Bây giờ các bạn tuy đã xuất gia, song các bạn giống như ở tại biển cả mênh mông, tìm không ra lối thoát vậy.
Người xuất gia cần phải vô sở cầu (không có mong cầu gì cả) và vô sở trụ (không để cho tâm vướng vào bất kỳ chuyện gì, việc gì, hay quan niệm, tâm trạng, tình cảm gì).
Bạn phải tu tánh; tức là sửa đổi tánh nết, thói quen xấu; cũng tức là tu Phật-tánh. Mỗi người, ai cũng có Phật-tánh thanh tịnh; Phật-tánh này chính là Ðạo.
Bạn nên tùy thuận tánh tình của kẻ khác (chớ sinh xung đột), hòa hợp với mọi người.
Xuất gia là để trị cái tâm lăng xăng như khỉ, sửa cái ý chạy rông như ngựa.
Xuất gia thì phải dụng công làm việc trong mọi thời mọi lúc, phải niệm Phật để điều phục cái tâm.
Người xuất gia nên niệm Phật cho nhiều, không nhất định là cứ phải ngồi Thiền; bởi vì khi công phu Thiền chưa chín muồi, bạn dễ bị dính vào ma sự.
Người xuất gia cần phải xả thân--ai chưởi rủa, hạ nhục, chê bai, dằn vặt, xử tệ..., bạn phải dửng dưng như không. Phải quét sạch sành sanh mọi quan niệm về tự ngã (cái "tôi", của "tôi") thì mới tu hành nổi.
Ðã xuất gia rồi, bạn phải dẹp sạch lòng tham lam ăn uống, ngủ nghỉ, ở sướng; như vậy thì bạn mới tu đặng phước, huệ. Ðừng như kẻ tại gia; đầy thứ tham luyến. Tăng là một trong ba viên ngọc (Tam Bảo--Phật, Pháp, Tăng). Do vậy, là Tăng (Ni), bạn phải tu cho giỏi cho tốt; mà duy chỉ có đạm bạc, đơn sơ thì mới có thể tu hành Giới, Ðịnh và Huệ.
Chùa là đạo tràng công cộng. Những Tăng, Ni từ các chùa khác lại, nếu họ giữ được quy luật thì đều có thể ở lại chùa để tu.
Công hạnh của người xuất gia là tu ở sắc, thọ, tưởng, hành, thức--năm Ấm; tu để khiến chúng đều "không." Do đó, hãy mặc áo vải thô, ăn cơm đạm bạc. Ðiều này không có nghĩa là bạn tuyệt thực, mà nghĩa là ăn đủ no, mặc đủ ấm là tốt rồi; không được tham lam, đua đòi.
Về chuyện ăn uống; đối với người xuất gia thì ai cho gì, nấu gì, thì ăn nấy. Không được chấp trước, kén chọn; không được ham ăn, thích ngon. Ðồ ăn ít một tí, hư thiu một chút cũng vẫn ăn. Nếu cứ ham ăn, thích ngon, thì nghiệp của bạn không dễ tiêu trừ đâu. Nếu bạn còn khởi lòng tham ăn, thì luân hồi thoát không lọt! Kỳ thật, thức ăn gì nếu đem thử nghiệm thì cũng có thể tìm ra độc tố. Khi đại-chúng ăn thức gì thì bạn ăn thức nấy là đủ rồi; đừng sinh bực dọc, khó chịu quái ngại đủ chuyện.
Người xuất gia đừng bao giờ sợ chết. Chết thì về Tây phương, càng tốt chớ sao!
Người tu cần phảisức mạnh "biến vạn sự thành vô sự" mới được! 
Khoác trên mình tấm cà-sa rồi, bạn phải tu đến chỗ không còn bị việc gì làm quái ngại, bận tâm. Không quái ngại, bận tâm về chuyện thế sự; không vướng lòng vào việc nhân tình... Hết thảy mọi sự, hễ quái ngại là thừa.

3. Tự Ðộ
A. Chùa Thập Phương

Chùa thì ai cũng có thể tới ở để tu được. Kẻ tới trú phải giữ nội quy do chùa đặt ra. Bạn không được coi mặt người tốt xấu, rồi tự tiện làm theo ý mình, muốn cho ai trú thì trú.
Khi có người tới trú ở chùa, bạn không được có tâm phân biệt, so sánh, chuyên môn kể lể chuyện xấu, lỗi lầm của người ấy. Làm vậy, bạn sẽ khiến người tu khó tu. Chỉ cần y tôn trọng, tuân theo nội quy của chùa là đủ rồi.
Ðừng nên so sánh, phân biệt vị này là đệ tử của ai, vị kia là đệ tử của ai. Hễ người nào tuân giữ Giới Luật, quy củ, thì đều giống nhau hết. Ai ai cũng là đệ tử của Phật. Nếu bạn cứ chia ra rành mạch rằng: "Thầy là kẻ ở ngoài tới, tôi là đệ tử của Sư-phụ ở chùa này..."; thì bạn chẳng phải là thầy tu!
Là người xuất gia, bạn chỉ cần tu hành cho đúng với giới Luật. Hễ bạn tu đàng hoàng thì đi tới đâu bạn cũng được mọi người cung kính, đến cả Thiên, Long, Bát Bộ cũng ủng hộ, bảo vệ bạn, và chùa ở nơi nào cũng đều là nhà của bạn!

B. Chỗ Lầm Lẫn

Khi bạn tu hành, nhất định bạn phải tu ở chùa lớn (đại tùng-lâm). Tu ở những nơi có đại-chúng đông đúc thì mới có thể rèn luyện thành bậc nhân tài.
Khi tu, cần phải tu ở chùa lớn, đông chúng. Bởi vì chỉ ở chốn nhiều người bạn mới biết và học được kinh nghiệm từ những điểm xấu. Những kẻ xấu ác trong chùa đều là những kẻ chỉ đường để bạn biết mà tu tiến bộ hơn. Ða số các Tổ-sư đều xuất thân từ chỗ làm bếp, trồng rau, chẻ củi... trong chùa. Chính những chỗ không ai thèm chú ý tới, không ai giành làm, mới là nơi để bạn tu hành!
Khi bạn tu ở chùa lớn, hãy chịu kham khổ về chuyện ăn, ở, mặc. Mắt bạn hãy làm như chẳng thấy gì, tai bạn làm như không nghe gì, giống hệt tên khờ. Cứ vậy mà tu thì Ðức Hộ Pháp Vi-Ðà chắc chắn sẽ bảo vệ bạn. Sau này khi bạn đi đến đâu, ai thấy cũng kính trọng bạn như Phật vậy. Bấy giờ, bạn muốn xây chùa thì lập tức sẽ có kẻ ủng hộ ngay.
Ngày nay chúng ta đã có một ngôi chùa tốt, một đạo-tràng lý tưởng để tu hành; bạn chớ có vọng tưởng, tính toán coi ở chỗ nào còn có chùa tốt hơn.
Khi lòng bạn không an định thì không cách gì bạn có thể tu hành được!
Hỏi: Tôi muốn rời chùa này tới chùa khác tu, hiện nay có ba chỗ; không biết ý Hòa-thượng thì chỗ nào có nhân duyên với tôi?
Ðáp: Bạn ra đi là vì tâm bạn không an ổn hay là vì chùa không an ổn?
Nếu tâm bạn không an thì dù bạn có chạy tới Tây Phương, bạn vẫn không an tâm.
Khi tâm bạn lăng xăng, bứt rứt, chạy rông, mà bạn chuyển nó ngay tức thời, thì tâm sẽ an định. Do đó, giữ Giới Luật là việc cực kỳ quan trọng. Hễ bạn giữ Giới thanh tịnh thì tâm sẽ thanh tịnh. Khi tâm bạn không an ổn, nhìn việc gì bạn cũng có ngã-tướng (chấp chặt vào quan niệm về mình và của mình); do đó bạn phải nhìn mỗi một sự việc đều không phải là ta, và cũng không phải là của ta.
Muốn tới Tây Phương, bạn phải tu tới chỗ tâm không còn loạn, tức là vọng tưởng không ùn ùn nổi lên nữa. Khi đối diện với bất kỳ chuyện gì, lòng bạn cũng chỉ có một niệm thanh tịnh, thì đó chính là Tây Phương.
Tâm không an, thì vọng tưởng cứ lăng xăng mãi. Do vậy, bạn phải lấy tâm để an tâm; nếu không vậy thì làm sao "an"? Khi tâm bạn muốn chạy rông, hảy tự hỏi rằng nó muốn chạy đi đâu.

C. Thăm Viếng Học Hỏi

Ở Ðài-loan không có chỗ nào để thăm viếng học hỏi, nên bạn hãy tự mình nghiên cứu chính mình là đủ.
Ðừng nên bồn chồn, bứt rứt, nóng nảy.
Thiện-tri-thức ở đâu? Ở lòng mình!
Khi lúa chín, đầu bông lúa nặng trĩu nên cong oằn xuống; khi lúa chưa chín thì đầu ngọn đứng thẳng vút. (Kẻ hiểu Ðạo, tu hành thành thục, thì hạ thấp mình xuống; còn kẻ mới tu Ðạo thì lúc nào cũng tự cao, không biết uốn mình.) Ðối với người tu không tốt, bạn cũng phải tham phỏng học hỏi; bởi kẻ tu xuất sắc thì hiếm khi tìm thấy, mà e rằng bạn cũng nhìn không thấu chỗ xuất sắc của người ta là ở đâu. Do đó, đi thăm viếng học hỏi kẻ xấu cũng đúng; bởi vì thấy được điểm xấu, điều lỗi lầm của họ, bạn hãy dùng nó để tự cảnh giác, thức tỉnh chính mình; tự hỏi mình có lỗi làm tương tự hay chăng, và tránh phạm lỗi ấy.
Tham phỏng học hỏi là phải nghiên cứu điểm xấu, điểm hư của người ta. Họ phạm lỗi ấy ư? Mình phải tu sao để đừng phạm nó! Họ không tu đúng Giới Pháp; mình phải tu sao cho đúng Giới Pháp!
Bạn xuất gia là vì mục đích tu hành, do đó đừng nên ra ngoài học thêm pháp thế gian. Những điều ở trường Phật-Học-Viện dạy chưa chắc hoàn toànPhật Pháp, Phật-học, vì luôn bị xen tạp bởi những môn như Xã-hội học, Kinh-tế học, v.v... Nếu bạn cứ ở gần những môi trường như vậy, lâu dần thì tâm bạn sẽ không cách gì thoát ly nổi thế tục.
Khi các bạn đến với đạo Phật, cạo đầu đi tu, hãy xem bạn có thể liễu sanh thoát tử hay không; đó là điều bạn chẳng thể không hiểu. Như đã đi tu lại còn muốn đi học kiếm bằng cấp, thêm kiến thức; thử hỏi ở trường học có ai dạy bạn mặc áo thô, ăn cơm đạm, buông xả để tu hành chăng?
Nhiều Tăng-sĩ đã xuất gia rồi, lại đi học ở Phật-Học-Viện. Sau khi tốt nghiệp, họ chỉ tăng trưởng lòng ngã mạn, tự cao tự đại, cứ muốn làm Trụ-trì. Song, họ nhờ vào đâu để "thống lý đại chúng", khiến mọi người hòa hợp, vui vẻ tu hành? Họ không làm sao có năng lực để cảm hóa tha nhân; cũng không ai chịu nổi họ!
Do đó, bậc Tăng-sĩ phải thiết thực tu hành khổ-hạnh, niệm Phật cho nhiều, phước huệ song tu.

D. Quan Hệ Giữa Kẻ Ðồng Tu

Làm thân đồ đệ, nếu bạn biết Thầy của mình có lỗi lầm gì, dù lớn đến đâu, bạn cũng chớ nói với kẻ khác. Bởi, nếu bạn làm như vậy, thì đó cũng là một hành động lỗi lầm!
Sau khi nghe kẻ khác nói về lỗi lầm của vị Thầy của y, bạn đem những điều đã nghe ấy kể lể với mọi người, thì bao nhiêu tội của y đều quy vào thân bạn. Bởi vì đó là phạm lỗi nói điều xấu của các vị đồng tu.
Ðối với các huynh đệ đồng tu trong chùa, bạn không có gì phải sợ sệt cả. Hãy tôn trọng, cung kính lẫn nhau.
Khi muốn nhờ ai làm việc gì, bạn đừng dùng thái độ ra lệnh (như lớn tiếng, ra oai, nói cộc lốc), sai khiến họ giống như cha sai con, chủ sai tớ; bởi đó là thái độ của kẻ thế tục.
Mình là người tu Ðạo, thì phải lấy Phật Pháp làm mô phạm (tức là dùng lời nói nhỏ nhẹ, từ tốn, cung kính yêu cầu họ làm việc).
Khi anh em huynh đệ ngồi với nhau, các bạn nên đàm luận về Phật Pháp. Ðừng bàn tới mọi đề tài khác để tránh loạn tâm. Ðừng nên tham gia tán gẫu, nói những chuyện vô nghĩa, phí thì giờ.
Khi trong huynh đệ có người nói chuyện về Phật Pháp, thì đừng nên xen chuyện thế tục vào. Nếu không, càng nói càng lạc để xa lắc. Hơn nữa, khi đã nói chuyện thế tục, thế nào bạn cũng đề cập tới chuyện ăn uống, thức này ngon, thức kia dở v.v...
Hai chúng Tăng và Ni phải phân ra ranh giới cho rõ ràng. Các vị sống tới trăm tuổi cũng phải phân rành mạch như vậy. Trừ phi bạn đã khai ngộ, chứng quả, có được Ðịnh-lực sâu dày; bằng không, bạn sẽ rất dễ phạm lỗi lầm, gây ra đủ vấn đề phức tạp.
Khi Tăng và Ni nói chuyện với nhau, các vị không được mặt đối mặt, mắt ngó mắt. Khi Tăng và Ni cần trao đổi, đưa vật gì, thì hai bên cũng không được chạm tay nhau.
Sư-Phụ tu có Ðịnh-lực; bằng không, Ta cũng không thể để mấy cô tới gần trong tầm một trăm bước nữa. Các vị bây giờ chưa có được một phần mười chánh niệm; do đó, các vị vẫn còn ở trong vòng rất nguy hiểm, nên cần phải chú ý cho kỹ.

E. Nhẫn Nhục

Thọ Giới tức là nhẫn nhục. Nếu bạn có thể nhẫn nhục chịu đựng hết mọi sự, thì bạn sẽ khó mà phạm Giới.
Bạn phải tu nhẫn nhịn vì nhẫn là gốc của việc tu. Nếu không biết nhịn nhục thì chỉ uổng cho bộ áo nhà tu đang khoác trên mình. Bạn chớ luôn cho rằng hễ việc gì mình làm là đúng (kẻ khác là sai); thái độ ấy sẽ làm cho bạn khó tu tâm.
Dựa theo lòng nhẫn nạitu hành thì mới là tu căn bản. Kết quả là đi tới đâu bạn cũng có năng lực cảm hóa người khác. Do đó, tu hạnh Nhẫn-nhục mới có đức hạnh; ai thấy bạn họ cũng sẽ sanh lòng hoan hỷ, và bạn có thể hóa độ họ.
Sau khi đã xuất gia, bạn phải xem hạnh Nhẫn-nhục là cao nhất, là số một. Những kẻ nói xấu, chửi bới, chê bai, phê bình bạn, đều là những kẻ chỉ đường cho bạn. Không có họ, bạn chẳng thể tiến bộ, chẳng thể thành tựu.
Ðừng cho rằng những nghịch duyên đó làm khổ bạn rồi sanh lòng ghét chúng, chán chúng, coi cái gì cũng không vừa lòng mình, thấy cái gì cũng gai mắt, rồi bạn nghĩ: "Thôi, cuốn gói đi quách! Về nhà cho rồi!" Song, biết đi đâu cho tốt? Cũng không thể đi cưới vợ, vì bạn biết làm vậy còn khổ hơn kia mà, nào khác gì sống ở địa ngục đâu?
Khi bị ai công kích, phê bình, bạn nên nhẫn chịu. Dù có bị oan cũng ráng nhịn. Bạn còn phải cảm ơn người ta vì may mắn lắm mình mới được (phê bình) như vậy.
Khi ai đem việc xấu ác, lỗi lầm mà đổ thừa, vu oan cho bạn; bạn cần phải nhẫn nại.
Dù bạn có đúng lý mà kẻ khác vu khống, nói càn rằng bạn sai bạn lỗi, thì bạn vẫn nên sám hối, xin lỗi kẻ ấy (đừng tranh biện); bởi vì tu hành chính là tu ở chỗ này.
Phải quán sát như thế nào? Bạn phải quán những lời lẽ ấy như tiền bạc; và khi người kia phun lời xấu ác thì cũng giống như y đang vung tiền cho bạn vậy. Nếu khi những cảnh giới ấy tới mà bạn không nhẫn, không biết làm sao tu nhẫn nhục, thì chỉ sanh ra đủ thứ phiền não, bực bội mà thôi!
Kẻ đả kích, bài bác chửi rủa bạn, bạn cho rằng y xấu. Song, theo quan điểm tu Ðạo, y quả là người giúp bạn; bạn phải cảm ơn y. Y đem tiền ở cõi Cực-Lạc tới tặng bạn, bạn không chịu nhận, lại chạy trốn, khóc lóc om sòm!
Khi chuyện gì xảy đến với bạn, bạn cũng nhẫn nhịn được, thì tu mới tiến bộ. Dù bạn có đúng lý cũng đừng cãi cọ tranh biện; cứ sám hối, xin lỗi người ta là đủ. Ðó là bạn đang tích tập công đức cho chính bạn vậy.
Nhẫn-nhục Ba-la-mật là hạnh mà khi bạn nhẫn nhục, bạn không cảm thấy và không cho rằng mình đang làm hạnh Nhẫn-nhục, không rêu rao là mình nhẫn nhục, và cũng không đè nén, dồn ép nội tâm (không để lộ sự giận dữ bên trong); vì đó toàn là có tướng trạng.
Khi nhẫn nhục mà lòng bạn không hề có cảm giác gì, không thấy chuyện gì xảy ra; như khi có ai chửi rủa bạn, bạn không biết là họ chửi mình; thì mới đúng là hạnh Nhẫn-nhục Ba-la-mật.

F. Một Niệm Cách Biệt

Nếu bạn không chịu thể hội Ðạo, thì tuy là thầy tu, tâm bạn vẫn còn vất vưởngngoại cảnh, xoay chuyển theo cảnh giới và sự việc bên ngoài; như thế vẫn còn rất nguy hiểm.
Trong chùa cũng đầy dẫy chuyện thị phi, trắng đen, đẹp xấu. Kẻ có trình độ thì nghĩ rằng: "Chờ tôi tu khá khá, tôi sẽ lại độ các vị." Kẻ không hiểu biết thì sẽ làm những việc hư, kết oán cừu thêm. (Ý là xem bạn có thể chuyển biến ngoại cảnh hay không.)
Nếu có ai muốn hại bạn, bạn nên suy nghĩ: "Có lẽ là hồi xưa mình có làm hại hắn ta; bây giờ mình không nên gây thêm oán cừu, mà phải độ hắn."
Chuyện gì cũng có nhân quả, dù là việc nhỏ như một cây kim, một sợi chỉ, một lời nói--tất cả đều có nhân quả.
Ðừng bao giờ tập thói cố chấp.
Có người hỏi: Cái bát của tôi bị bể; phải chăng cái bát cơm của tôi cũng mất luôn? (Ý nói là bát bể, thì phải chăng cũng hết tu.)
Hòa-Thượng đáp: Ðừng nên chấp trước. Nếu cái bát của cô bị người ta làm bể, rồi có nhân việc đó mà oán hận, muốn trả thù kẻ kia, thì rõ ràng là chỉ vì cái bát mà cô tạo oán cừu, gây hận thù với người khác vậy!
Khi nghiệp chướng ập tới, vô minh, phiền não dấy khởi, nếu bạn không có chánh-niệm thì tà-niệm sẽ nổi lên. Khi ấy, thấy ai bạn cũng gai mắt, bực dọc; thấy việc gì bạn cũng không hài lòng. Bạn chỉ muốn cuốn gói đi ở chùa khác; hoặc bạn cảm thấy đời tu vô vị, không có ý nghĩa gì, chỉ muốn hoàn tục cho xong chuyện.
Bạn biết chăng; chỉ cần bạn nổi một niệm phiền não lên là bạn đã sai rồi, không cần phải bàn tới việc bạn có đúng lý hay không!
Ðừng tìm coi người ta có lỗi lầm hay không. Bạn phải tự thắp sáng cõi lòng, chiếu rọi tâm mình, hồi quang phản chiếu--xét xem mình đã làm tốt chưa.
Tu là sửa đổi chính mình dựa theo chân lý, chứ không phải dựa vào người khác. Do đó, bạn phải cung kính, tôn trọng Tam-Bảo (hiện thân của chân lý).
Hễ là chúng sanh thì ai cũng có lỗi lầm hư xấu; song hễ ngày nào biết sám hối, biết ăn năn sửa đổi, thì tốt liền. Dù là loài nở ra từ trứng, hoặc sanh ra từ thai bào, từ chỗ ẩm thấp hay từ sự biến hóa--tất cả đều có Phật-tánh. Nhiều thứ súc sinh tánh rất linh thông, hơn cả con người nữa; song, chỉ tội là chúng không biết nói để chúng ta hiểu mà thôi.
Bạn nhận thức được điều xấu của mình, đó là một việc rất tốt.
Là người, ai ai cũng đầy một bụng phiền não; nếu không tự biết lỗi thì làm sao tu? Do đó, tu chính là từ đây, từ sự nhận thức này mà trừ khử phiền não. Nếu không vậy, mỗi ngày bạn cứ như cũ, chẳng thay đổi gì--cứ ăn, ngủ, làm việc, không tu để ngộ Ðạo; thì tới già bạn vẫn hệt như bây giờ, mà đầu óc thì đầy nhóc những phiền não!
Bạn cả ngày chỉ đầy dẫy niệm xấu, không có một chút chánh niệm; bạn không nghĩ về sắc (thứ có hình tướng như sắc đẹp, áo quần, tiền bạc, chùa chiền, cơm canh...), thì cũng nghĩ tới thứ vo sắc (có tên mà không có hình thể như danh, lợi, sung sướng, hưởng thụ, ý niệm, tư tưởng...).
Hễ bạn tranh chấp, đấu tranh, cãi vã, tính toán hơn thua, thì tâm bạn không sao được yên. Ðừng cho rằng người khác sai, mình đúng. Họ không sai, không lỗi đâu; mà chính bạn đã không biết tu hành. Chỉ vì lòng bạn có phiền não, tức bực, khó chịu, oán hờn, nên tâm mới không yên ổn. Cứ để sự việc trôi qua thì nó sẽ tan biến, và bạn mới có được chánh-niệm.
Người ta chê bai bạn xấu, bạn hư; bạn chớ nổi nóng, bực dọc, khó chịu. Họ khen bạn hay, bạn tốt; bạn đừng vui sướng, cao hứng. Trong cái dở luôn có cái hay, trong cái tốt luôn xen lẫn cái xấu.
Kẻ nào khen ngợi, ve vuốt, tăng bốc bạn; kẻ đó không phải là vị thầy tốt, không phải là bậc minh-sư. Những ai nguyền rủa, mắng chửi bạn bất kể bạn đúng hay sai; họ mới chính là những bậc minh-sư. Lúc họ xử tệ với bạn chính là lúc họ giúp bạn thành tựu.
Nếu khi bị chèn ép, xử tệ, mà bạn nghĩ rằng: "Các ngài khinh thường tôi như vậy; song, tôi vẫn cứ tu để các ngài hiểu"; thì bạn là người có chí khí; và như vậy, ắt có ngày bạn sẽ thành công!
Bạn đúng lý mà y sai; cứ để cho y làm gì thì làm, coi như bạn là sai lầm vậy. (Vì bạn có giải thích, có tranh cãi tới đâu, y cũng không thèm nghe; vậy cãi có ích gì?) Ðó chính là bạn biết làm chủ chính mình, không bị người ngoài hay sự việc làm lay chuyển.
Những cảnh giới mà bạn tiếp xúc bây giờ đều là do những hạt giống bạn trồng xưa kia, bây giờ chúng hiện ra thôi.
Thấy người tại gia mặc áo quần đẹp đễ (tức là một thứ cảnh), thì có kẻ tự nghĩ: "Mình đi tu sao mà khổ thế này? Cái gì cũng không có, chỉ được mặc ba cái áo nâu sồng thô sơ này..."; có kẻ lại nghĩ khác: "Ôi! Trong cõi Ta-Bà khổ não này chỉ có ăn mặc đẹp đẽ đến thế mà thôi; có gì là hay, lạ đâu?"
Nhiều nữ tín đồ khi chưa xuất gia thì nhồi phấn, thoa son, kẻ mắt, vẽ mày...; bây giờ mấy cô làm Ni-cô ở đây, chẳng ai còn vậy, coi tốt hơn!
Hai người, một cô xấu xí, một cô đẹp tuyệt. Cô xấu xí thì biết mình xấu nên đánh phấn đánh son, trang điểm tươm tất lắm. Song, càng trang điểm bao nhiêu, càng xấu bấy nhiêu; không bằng để tự nhiên!
Tu hành cần có năng lực chịu đựng--chịu khổ, chịu ăn cơm đạm, chịu mặc áo thô.
Ðời này, thế giới vật chất phong phú, muốn gì có nấy rất dễ dàng. Nhiều thứ, do kỹ thuật tiến bộ nên không còn cần dùng tới tay chân nữa, nên vô cùng tiện nghi.
Là kẻ xuất gia tu hành, các bạn phải quan sát, suy tư về tấm gương tu hành của chư Tổ hồi xưa. Theo bước chân các ngài mà tu thì mới chấm dứt được sanh tử.
Tôi (Hòa-Thượng) xuất gia tu hành không phải vì mục đích hưởng thụ; tôi muốn tu sao cho việc ăn uống, ngủ nghỉ, áo quần thật đơn giản. Tôi thà là bị xã hội coi thường, cho rằng tất cả mọi thứ ở đây không thể bì được với người đời còn hơn!
Khi được xã hội trọng vọng, thì giữa họ và mình sẽ sinh ra mối dây tình cảm, yêu mến, và rồi sẽ đưa tới nỗi khổ phải xa cách nhau; kết quả là tạo thạnh vòng luân hồi luẩn quẩn! Khi bạn bị xã hội khinh rẻ, coi thường, thì bạn sẽ bớt lòng phan duyên (thích lấy cái này, sở hữu cái kia, giao kết với người này người nọ để trục lợi), bớt tâm vọng tưởng (cứ nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, không hết chuyện này đến chuyện khác, không dứt), và dễ chuyên tâm dụng công hơn!

4. Ðộ Người
A. Biết điều tốt của thí chủ

Khi thí chủ quý trọng bạn, họ mới cúng dường. Vì thế, bạn nên có lòng tri ân, cảm kích, mà tu hành cho đàng hoàng.
Như các bạn ăn mặc đơn sơ, đạm bạc, lại dám xả thân làm việc công quả cho chùa; người ngoài nhìn bạn họ sẽ nhận thấy rằng: "Các vị tu sĩ này thật làm tôi cảm động; họ biết xả thân vì Ðạo, vì chùa..." và tự nhiên họ muốn cúng dường bạn. Như thế, vô hình trung, bạn đã độ họ, khiến họ trồng căn lành trong ruộng phước đức. Ðây chính là hoằng Pháp, lợi sinh vậy!
Người tu phải chịu cực chịu khổ, không được chấp trước vào quan niệm về "tôi" và cái "của tôi", rồi sanh ra tật thích chải chuốt cho đẹp đẽ, ăn uống cho ngon lành, và muốn mọi sự phải cho tiện nghi, sung túc. Thân mặc áo nâu sòng cho sạch sẽ, chỉnh tề là đủ; bởi kẻ xuất gia mà sống quá sướng, quá hưởng thụ thì không người tại gia nào muốn cúng dường cả! Người tu mà biết chịu cực, sống kham khổ, thì thí chủ mới khâm phục, mới muốn cúng dường. Ðời sống chỉ cần có cơm ăn no, có áo mặc ấm là đủ lắm rồi.
Người xuất gia: chân đạp đất của tín thí, đầu đội trời của tín thí, thân mặc áo thí chủ cho, miệng ăn cơm thí chủ cúng, ngủ ở phòng thí chủ xây. Cứ tính là mỗi ngày bạn tu được một trăm đồng tiền công đức. Hễ bạn khởi tâm động niệm khiến thân miệng ý không thanh tịnh, thì khấu trừ đi ba mươi đồng. Thêm vào là tiền ăn uống đáng giá ba mươi đồng, tiền trú ngụ là hai mươi đồng, tiền ăn mặc đáng năm mươi đồng; tổng cộng là một trăm ba mươi đồng tiền công đức. Ðấy, công đức tu hành bạn làm ra trong ngày không đủ để trả những phí tổn trên; vậy thì bạn còn có công đức gì nữa? Tín chủ cúng dường khó tiêu lắm!
Muốn Tăng-đoàn trang nghiêm, bản thân mình phải trang nghiêm. Bất cứ ở chỗ nào, lúc nào, mình cũng phải trang nghiêm. Thí dụ khi tụng Kinh, nếu người ta thấy chư Tăng, Ni vô cùng trang nghiêm, thì tự nhiên họ sẽ sanh lòng tín ngưỡng đối với Ðạo, và không coi Phật giáo là thứ tiêu cực nữa.

B. Tiếp đãi tín đồ

Bồ-tát là kẻ độ chúng sanh, do đó mình phải rộng kết duyên lành với chúng sanh. Hiện tại tôi còn sống, khi người ta tới bái kiến tôi thì các bạn phải ráng kết thiện duyên với họ. Thấy tín đồ nào, bạn cũng nên tiếp đón, chào hỏi; song không được phan duyên (dùng thủ đoạn tình cảm để kiếm lợi lộc riêng tư), không được cống cao ngã mạn, rằng "Tôi là người xuất gia, các vị chỉ là kẻ tại gia!" Bạn phải hiểu rằng tất cả mọi phí tổn cho sinh hoạt hàng ngày như ăn, ở, mặc của tôi đều là do thí chủ cúng dường mà ra!
Khi có người kết duyên xấu với thí chủ, các bạn chớ có bị người ấy ảnh hưởng, khiến mình cũng kết duyên xấu với thí chủ. Bạn phải có năng lực nhận định phải trái, phải tự làm chủ chính mình; bởi chúng ta cần rộng kết duyên lành.
Cho nên nói: "Vị thành Phật, tiên kết nhân duyên"; nghĩa là khi chưa thành Phật, trước hết, phải kết duyên lành với mọi người.
Khi có tín đồ lại chùa, bạn hãy khéo dùng lời lành tiếp đãi họ, mời họ lạy Phật, ăn cơm, đi dạo coi chùa. Ðó chính là kết duyên lành, và cũng là cách tu hành. Ðiều cốt yếu nhất là đừng bày đặt ra vẻ thanh cao, "ta đây là Thầy". Cái đó không phải là tu hành gì cả. Tín đồ là kẻ đang tu học, bạn là người tu thì phải hành Ðạo Bồ-tát. Không nên tu thứ hành vi xấu; phải tập cử chỉ tốt. Khi có kẻ bất lương đến chùa, bạn đừng để ý tới y là xong. Ðừng nên cằn nhằn, cũng đừng chửi rủa người khác hoài. Tu hành thì phải tu cho tới lúc có trí huệ; bấy giờ, hễ đụng chuyện gì, bạn cũng thấu suốt được ngay. Khi đó, nói chuyện gì bạn cũng có thể nói một cách viên dung. Khi mình đã đứng vững rồi, kẻ khác sẽ do đó mà sanh lòng hoan hỷ tiếp nhận lời bạn, mà bạn cũng không tạo nghiệp.
Tín đồ mang vật phẩm đến cúng dường, đó là vì họ muốn cầu phước. Vì vậy, dù vật nhỏ như một ngọn cỏ, bạn cũng phải vui vẻ tiếp nhận. Nếu khi thấy họ đem những thứ tốt đẹp lại cúng dường, rồi bạn sanh ra tham lam, thì bạn không thể ngộ Ðạo được. Khi có người mang thức ăn dở đến, bạn đem nấu lại cho ngon lành, thì đó là bạn tu cả phước lẫn huệ! Nếu bạn không biết xử lý một cách thích đáng, ngược lại, cứ trách móc thí chủ đã cúng thức ăn hư thối; thì đó là tự bạn nổi phiền não và tự bạn tạo khẩu nghiệp mà thôi!
Dù là người trong gia đình hay bà con của mình tới chùa ăn cơm, mình cũng nên khuyên họ cúng dường tiền cơm cho chùa để họ có quan niệm đúng đắn (về nhân quả, nghiệp báo.)
Bạn nên lân mẫn, thương hết mọi chúng sanh; hãy nghĩ rằng họ và mình chỉ là một. Thí chủ lại tu, lại trồng thiện căn; mình phải lấy tâm Bồ-đề, tâm từ bi đối với họ mới đúng.
Khi ai đang nói, bạn chớ ngắt lời hoặc nói xen vào. Chờ họ nói xong, mình hãy nói; đó gọi là lễ phép. Khi ứng tiếp, nói chuyện với thí chủ, bạn chỉ nên nói về Phật-pháp. Khi họ muốn nói chuyện thế tục, bạn hãy xin lỗi mà nói rằng: "Tôi không có thì giờ, xin mời bạn lên lễ Phật, hay tản bộ dạo chơi." Khi gặp kẻ xấu, bạn chớ để ý tới y là tốt nhất; bởi vì hai đồng tiền mà đập vào nhau thì chắc chắn phải kêu lẻng kẻng!
Quan hệ với người đời: bất quá họ chỉ xã giao mà thôi. Vì vậy, khi bạn ứng tiếp họ, tâm bạn phải biết tự chủ, luôn có Phật-pháp (soi sáng). Không nên cùng người thế tục đàm luận chuyện đời. Hãy đem Phật-pháp lại so sánh.
Nói những chuyện khôi hài song song đầy ý vị Phật-pháp sẽ làm người nghe đỡ phiền não.
Kẻ tu hành mà không nói Phật-pháp, lại đi đàm luận thế sự; đó nào phải là bổn phận của người xuất gia? Khi người tu mà còn nói chuyện trần tục của người đời, tức là y chưa đoạn được tục khí (thói quen trần tục); thế thì làm sao y đủ tư cách bàn tới hai chữ "tu hành"?

C. Sự nghiệp của Bồ-tát

Mỗi vị Thầy đều có một phương pháp độ sinh khác nhau; do vậy, bạn chớ tùy tiện chê bai, phê bình. Bởi nếu làm vậy, bạn sẽ tạo ảnh hưởng không tốt đối với lòng tin Phật-pháp của kẻ khác. Việc này có nhân quả đấy!
Vì muốn độ chúng sanh nên mình phải hằng thuận, phải chiều theo chúng sinh, cũng giống như mình đánh lừa đứa nhỏ (vì muốn cứu mạng nó) vậy; mà phần lớn là để chúng sinh trồng căn lành trong ruộng phước.

Tôi không đòi hỏi gì cả. Chúng sanh thấy tôi thì sinh lòng hoan hỷ; song, bản thân tôi, tôi không hề biết đến.
Làm việc gì mình cũng phải rõ suốt chân lý của việc ấy thì mới lãnh đạo, dẫn dắt được người ta. Nếu mình không thông suốt chân lý, làm sao dẫn dắt kẻ khác?
Hiện tại, người tu cần dùng Phật-pháp và sự thật để chỉ đạo, giáo hóa chúng sanh. Không vậy thì mọi việc đều biến thành thế tục; mình chẳng những không thể tùy thuận ai được mà lại còn mất đi lòng độ lượng nữa!
Hoằng Pháp, lợi sinh: đây không phải là việc nói suông. Chỉ cần bạn tu trì cho tốt, thì tự nhiên khi nhìn bạn, ai cũng sanh lòng hoan hỷ, cung kính
(Ví như Hòa-thượng Quảng Khâm: Ngài không hề xuống núi song kẻ ngưỡng mộ và quy y Ngài thì nhiều không xiết.)
Hoằng Pháp, lợi sinh tức là cần mình hy sinh thân xác này.
Bạn phải làm một vị Bồ-tát. Không thể cho mình tốt là đủ, rồi mặc kệ kẻ khác. Phải coi kẻ khác là trọng yếu, còn mình thì sao cũng được. Phải làm lợi ích tha nhân. Khi bạn chỉ làm lợi ích cho riêng mình thì vô minh, phiền não của bạn sẽ đầy dẫy.

Người xuất gia lấy lòng nhân từ làm gốc, lấy phương tiện làm dụng, lấy lòng đại bi làm thể. Tất cả (mọi căn lành, mọi pháp môn...) đều từ lòng từ bi mà phát sinh.
Gia, ví như tập khí, thói quen, vô minh, phiền não, những chủng tử xấu của mình. Quốc, ví như đại chúng. Mình phải trị gia trước, rồi mới trị quốc sau. Nghĩa là trước hết, bạn hãy trừ sạch mọi thói hư tật xấu, vô minh phiền não của mình; rồi sau đó đem đức hạnh ra cảm hóa kẻ khác, "thống lý đại chúng."

5. Ðiểm tốt của việc tu

Xuất gia là việc đại hiếu. Bạn cần phải báo đáp bốn ân lớn (ơn cha mẹ, ơn thí chủ, ơn chư Phật, ơn Thầy), và cứu độ ba đường khổ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Bạn sẽ độ thoát cha mẹ mình trong muôn vàn kiếp, không phải chỉ có cha mẹ đời này mà thôi.
Bộ áo người tu không phải ai ai cũng mặc được. Chỉ có kẻ phước-khí mới mặc đặng.
Một kẻ xuất gia, dù y không tu hành gì lắm, chỉ biết ăn chay trường, không sát sinh, không có tội lỗi lớn, thì kiếp sau y có thể đầu thai làm người lại và tu hành tiếp. Y sẽ không bị rớt vào ba đường khổ hay bốn loại sanh (sanh ra từ trứng, từ thai, từ nơi ẩm ướt, hay từ sự biến hóa).
Hỏi: Khi một kẻ xuất gia phá Giới, phạm tội ác vô biên, bị rớt vào địa ngục, phải chăng y còn tệ hơn kẻ tại gia? Như vậy, chi bằng tu tại gia tốt hơn?
Ðáp: Xuất gia tu vẫn tốt hơn! Tuy y (kẻ xuất gia) bị đọa lạc, song khi y chịu hết quả báo, y có thể trở lại tu hành. Chắc chắn rồi y cũng xuất gia, bởi y đã trồng ít nhiều căn lành rồi. (Một kẻ ngoại đạo, nếu đem so sánh, còn kém hơn một người xuất gia phá giới).
Kẻ có căn cơ, thì sau khi đi tu, y hiểu rõ mọi chuyện, thể hội được điểm tốt cũng như điểm xấu giữa người xuất gia và người tại gia. Có kẻ chẳng bao giờ thể hội được điều ấy.
Sở dĩ bạn không thể nhìn thấy, không thể biết được điểm tốt của việc xuất gia, là vì bạn còn nghiệp chướng. Nếu nghiệp chướng ấy không tiêu trừ, thì khi bạn lâm chung, chúng sẽ hiện ra
Nhìn hời hợt thì kẻ xuất gia chỉ biết ăn ngày ba bữa, làm vài chuyện này nọ. Kỳ thật, xuất gia là vì muốn trừ khử lòng tham lam,sân giận, si mêtiêu trừ nghiệp chướng.
Có người nói: Mấy Thầy ăn chay nên nói luận điệu của kẻ ăn chay; nếu ai cũng đi tu thì xã hội sẽ ra sao? 
Hòa-thượng đáp: Ai ai cũng đi tu thì chúng ta cùng nhau vãng sinh Thế-giới Cực-lạc ở Tây-phương; như thế không phải là càng tốt hay sao?

6. Ðạo Cao Một Tấc, Ma Cao Một Thước

Nghiệp ác mình tạo ra từ nhiều kiếp thì cao ngất như núi. Ðời này, khi mình đi tu, những ác nghiệp ấy có thể xuất hiện. Do đó, có lúc mình cảm thấy cái nghiệp sau khi xuất gia lại nhiều hơn lúc còn tại gia. Bấy giờ, mình cần có sức lực mạnh mẽ để vượt qua. Nếu mình không hàng phục được phiền não, lại khởi tâm động niệm, thì sẽ tạo thêm nghiệp mới!
Xuất gia tu hành là việc không tầm thường.
Việc xuất gia thì nhiều lắm. Khi những kẻ oán, thân, chủ nợ (ở kiếp trước) đến đòi nợ, thì mình sanh bệnh hoặc gặp đủ thứ chuyện rắc rối kéo tới. Nếu mình chẳng vượt qua được thì không cách gì an lòng tu Ðạo đặng. Do đó, khi bạn bệnh khổ, hãy tự khuyến khích, sách tấn chính mình. Lạy Phật, niệm Phật nhiều hơn thì nghiệp chướng sẽ tiêu tan.
Kẻ tại gia nhìn (sinh hoạt người tu) nhưng không hiểu, nên cho là người tu khổ sở lắm. Ðối với kẻ có Ðạo-tâm không kiên cố, thì y coi đời tu như là cuộc sống ở địa ngục trần gian; y luôn cảm thấy việc gì cũng không tốt và không tự tại, lại sanh phiền não nhiều. Có nhiều vị tuy Ðạo-tâm kiên cố hơn, song do hạt giống xấu gieo trồng từ nhiều kiếp trước, nên tuy nghe Sư-phụ giảng dạy mà không để vào lòng gì cả. Ảnh hưởng của trần gian thế tục đối với họ thì còn nặng nề, sâu đậm lắm.
Ở chùa mình, các bạn còn thấy người tới từ mọi nơi: nào là tướng mạo thế này, hình sắc thế kia... đủ cả. Những Tăng, Ni trẻ tuổi thì ý niệm về tình cảm yêu đương còn nặng nề lắm. Khi thấy những cặp trai gái đến, nếu các vị bị cảnh tượng ấy làm tâm dao động, rồi sanh lòng ước muốn, ưa thích, thì các vị sẽ dứt mất Ðạo-tâm (tâm tu hành). Nếu các vị nhận định tâm trạng ưa thích của mình là tội lỗi, thì mới có Ðạo-tâm.
Kẻ xuất gia trẻ tuổi thời nay thật rất nguy hiểm. Họ rất dễ bị ngoại cảnh làm thay đổi chí hướng. Những kẻ nửa đời xuất gia (tức là đã kết hôn rồi), thì đã nếm hết mùi đời, nên đối với ngoại cảnh, họ có phần nào tự chủ hơn. Song le, nếu người trẻ tuổi xuất gia mà chịu tu hành đàng hoàng, thì trí huệ sẽ khai mở, rất dễ thành tựu.

7. Ni Chúng

Người nữ thiếu tu hành 500 đời. Nếu biết tu, các cô có thể ngay thân này, đời này được giải thoát. Song các cô đừng quá coi trọng tấm thân: ăn no là tốt rồi, mặc ấm là đủ thôi, không cần ngủ thì chớ ngủ. Không làm như vậy thì chỉ có tham lam, tán loạn, mất Ðạo-tâm mà thôi!
Sanh làm thân người nữ song được xuất gia, được gặp bậc đại Thiện-tri-thức, lại được ở nơi đạo tràngyên ổn tu hành; các cô phải cảm nhận là mình vạn phần may mắn! Các cô nên mau mau tu trì, sửa đổi bản tánh nóng nảy, trừ bỏ ý nghĩ xấu ác, thay đôi quan niệm sai lầm xưa kia.

Ðài Loan vẫn còn tốt là vì các cô còn có thể xuất gia. Nếu không, e rằng người nữ trong xã hội chỉ đọa lạc mà thôi. Nay các cô xuất gia rồi, nếu còn không chịu tu, thì biết kiếp sau các cô có còn được thân người để tu hành nữa không?

Ðừng cho rằng các cô tu như vậy là cực khổ lắm, rồi sanh lòng ghét cái này, bực cái kia, thấy việc gì cũng sai cũng trật; lại nghĩ: "Thôi, đi phứt cho rồi!" Song, các cô đi, mà biết đi đâu? Cũng không thể đi lấy chồng, bởi như vậy, rốt cuộc chỉ thêm đau khổ như sống ở địa ngục mà thôi!1

Nhiều cô đã mắc phải căn bịnh trần trọng - bệnh nhiều tình cảm. Các cô không được tái phạm cái trò tình cảm dây dưa ấy, như là thích ngủ chung với nhau. (Nếu cô này không chịu ngủ chung với cô kia, thì bị cô kia nói cô này không tốt với cô). Các cô phải ngủ riêng, tách rời một chút. Nếu các cô cứ cố chấp hoài thì chính là tà đó!

Người nữ mà xuất gia được là chuyện khó rồi; sao các cô còn đòi hỏi đi đây đi đó để tham phỏng, học hỏi này nọ? Chỉ cần các cô học hỏi chính mình (lúc khởi tâm động niệm, lúc có tham, sân, si, ngạo mạn, tà kiến). Các thầy thì mới nên đi tham phỏng học hỏi!

Các cô phải hết sức tránh nói chuyện với người nam giới, với các Thầy.

1 Khi Hòa-thượng Quảng Khâm (83 tuổi) muốn nhập niết bàn, Ngài có nói: "Các ni cô ở Ðài Loan không thể chịu khổ - khổ ở đây ám chỉ mọi thứ khổ, ví như làm các thứ khổ hạnh, tu nhẫn nhục, hay lúc tinh tấn niệm Phật, lạy Phật... mà thân thể bệnh khổ, sức - các cô không chịu nổi khổ cực, thì không cách gì chứng đắc được cả!"

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27195)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21789)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22258)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23636)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20465)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20067)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21958)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19017)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24793)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24011)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27785)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26555)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21368)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23248)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38178)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18817)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18441)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20007)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19064)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23204)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23904)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22836)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22952)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29608)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20654)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18733)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15858)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19707)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20178)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19969)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18142)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22983)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34204)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16943)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39296)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26117)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20130)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18879)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24095)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22926)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30986)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21042)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26882)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20698)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26282)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23356)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24700)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30055)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20243)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20433)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15163)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23926)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant