Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương X: Lời cuối

07 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10650)
Chương X: Lời cuối


Chương X: LỜI CUỐI

1. Thời Ðại Ðã Thay Ðổi Rồi!
Thầy giáo ngày nay và ngày xưa khác nhau xa lắm.

Thời Hán, thầy giáo thì kính trọng đạo đức, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Thời nay, thầy giáo bản thân không làm xong (không đủ đức độ). Phật học ngày nay cũng kém xa ngày xưa.

Hồi xưa ai cũng coi trọng lễ, nghĩa, liêm, sỉ; do đó mới có bậc Thánh Nhân xuất hiện.

Ðời nay không ai những điều ấy là giá trị, vì vậy xã hội ngày càng hỗn loạn. Do đó mình phải có thái độ cung kính đối với kinh điển.

Ngày xưa có người họa sĩ có thể vẽ hình mặt trời hệt như thật, đến độ người ta có thể đem lúa ra phơi dưới bức tranh! Có kẻ vẽ con chim vô cùng sống động, đến độ nó có thể bay thật sự! Sở dĩ họ làm như thế được là do tu luyện mà ra.

Người thời nay ai mà vẽ được con chim biết bay thực sự? Ai ai cũng ỷ lại vào kỹ thuật máy móc hoặc hóa học chế biến cả!

Hiện nay, Phật-giáo trên toàn thế giới đại thể thì có hoằng Pháp, truyền bá. Song le, tuy đạo Phật phổ biến như vậy, nhưng lại rất khó tìm được kẻ chân chánh tu hành. Cũng có kẻ sớm đến với Ðạo, thiện căn khá tốt; song, kẻ xuất gia thì vẫn ít.

Xưa kia, ở chùa bên Ðại Lục (Trung Quốc), việc xuất gia không có dễ dàng đâu. Hễ vừa đi tu là bạn phải làm việc lao động tay chân ở chùa một thời gian (khổ công như cày ruộng, cuốc đất..), rồi sau đó mới được phép làm những việc nhẹ trong chùa.

Ở Ðài Loan (Trung Hoa), việc xuất gia rất phổ biến, rất bình thường; và phần lớn là căn cứ theo học vấn mà xét việc xuất gia.

Ở Ðại Lục xưa kia, xuất gia là để liễu thoát sanh tử: do đó, tu hành cực khổ, học cái khổ hạnh của Phật, Bồ Tát để tu luyện bản thân. Tại Ðại Lục, kẻ xuất gia phải chịu làm việc lao tác cực khổ (khổ hạnh) trong ba năm; có chịu cực khổ thì mới giải thoát được!

Người nay và người xưa khác nhau xa: cổ nhân, Ðạo-tâm có mười phần; người đời nay, Ðạo-tâm chỉ có một phần.

Người tại gia hay xuất gia đời nay sinh hoạt sung sướng, tốt lắm. Khi cuộc sống quá sung sướng thì sẽ sinh ra nhiều tai nạn. Chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì bịnh hoạn cũng sẽ nhiều hơn.

Ăn cơm đạm, mặc áo thô: tu hành là cứ ở đây mà dụng công. Song hiện tại, ai ai cũng nghiên cứu việc ăn ngon, mặc đẹp. Cả ngày bận rộn vì mấy chuyện ấy. Mình nguyện muốn tiêu nghiệp chướng, nay biến thành tiêu hao mất phước huệ; rồi thì nghiệp chướng cũng theo đó mà ùa tới thôi.

Xưa kia cơm, canh, rau cải, thật giản dị - cứ việc bỏ hết vào luộc là xong (gọi là La-hán thái). Giờ đây, ai cũng chú ý, kén chọn việc ăn uống đến độ người xuất gia ăn còn ngon hơn cả kẻ thế tục nữa!

Hồi xưa, ở Ðại Lục, các thầy tu ở chùa mặc thì mặc áo vải bố (thứ vải mặc làm đám tang) nhuộm thành màu xám; ăn thì ăn cháo lỏng như nước lã (do đó chén bát không cần phải rửa kỹ), cộng thêm một chút đồ ăn giản dị; chứ không phải như các bạn bây giờ được ăn cơm trắng, lại có đủ món, nhiều món ăn như vậy.

Chùa chiền ở Trung Hoa xưa kia, hễ ai để đồ đạc bừa bãi thì chùa đều gom góp, tịch thâu lại, bất kể là của ai. Nếu bạn muốn tìm đồ mình mất thì phải đi hỏi Thầy Quản-lý.

Ở chùa bên Trung Hoa khi xưa, khi có ai phạm lỗi lầm, Thầy Quản-lý không cần phải nói dông dài gì cả, mà chỉ việc viết tên người ấy lên bảng bố cáo; người ấy đọc được là tự động rời chùa ngay.

Thời nay, Thầy Quản-lý có tới nói lỗi lầm của bạn (để mời bạn cuốn gói), bạn (chẳng những không thèm nghe) lại còn tranh chấp cãi vã với thầy ấy nữa; thật là sai lệch quá xa!

2. Khai Thị Ngộ Nhập 

Tự mình sanh phiền não, tự mình phải giải mở. Hãy đem lời Sư-Phụ khai thị ra áp dụng.

Sư-Phụ khai thị nhiều như vậy, giờ đây xem bạn thọ trì ra sao.

Kẻ biết nghe, khai thị mới có ích. Kẻ không biết nghe, khai thị cũng vô dụng.

Nghe giảng khai thị, không luận là nghe nhiều hay nghe ít, mà là coi xem nghe vào hay không vào (tâm). Nghe vào tâm rồi thì phải biết áp dụng.

Bạn nghe lời khai thị của Sư-Phụ hay quá. Song hay là Sư-Phụ hay (chứ không phải bạn hay). Vẫn phải cần bạn đem thực hành.

Các bạn lạy tôi làm Thầy; tôi dạy các bạn Phật Pháp. Khi tôi không còn ở đời, các bạn phải theo thứ Pháp này mà tu hành thì Ðạo-tâm mới kiên cố, con đường xuất gia mới viên mãn.

Khi học Phật Pháp, bạn nghe Sư-Phụ khai thị cho một câu thì tự mình phải làm sao giác ngộ, lãnh hội được câu ấy. Không phải cần nhiều lời. Khi lời nhiều thì các bạn vẫn còn bị xoay chuyển.

Hỏi: Sau khi Sư-Phụ viên tịch, nếu chúng con tưởng nhớ Sư-Phụ thì phải làm sao?

Một thầy (Thầy Truyền Vân) phát biểu: 'Chính Phật-tánh của Sư-Phụ nói Pháp, khai thị cho chúng ta; chứ không phải là cái thân giả hợp của Ngài. Có nhớ tưởng tới Ngài thì mình hãy phát tâm dũng mãnh, tinh tấn tu hành!'

Lời tôi giảng là nhắm thẳng vào các bạn. Ðừng nghĩ rằng tôi nói lỗi xấu của riêng bạn hay của người nào đó, rồi sinh ra phiền não, bực bội.

Nếu bạn có lỗi thì hãy tự thừa nhận, sám hối, phản tỉnh, sửa đổi tánh nết, hành vi.

Cứ thường chấp trước thì dễ sinh phiền não. Bạn có phiền não, rồi lại ảnh hưởng, làm kẻ khác cũng bực bội, rồi cả đại chúng đều sinh loạn. Thế thì làm sao 'thống lý đại chúng' làm cho mọi người hoà hợp? Phải sửa mình, tề gia trước, rồi sau mới trị quốc, sửa người được.

Kẻ có tánh thẳng thắn thì tuy lời nói không êm tai, không dễ nghe cho cho lắm, song bạn chớ cho là lời xấu ác. Có kẻ ăn nói hay ho lắm, song tâm thì không tốt gì cả. Do đó, bạn phải chú ý, phải hiểu suốt tâm lý nhân tình.

Nhiều khi kẻ trực tâm lời nói không có ý xấu gì cả, song người nghe thì cong vạy, khúc mắc, xuyên tạc; thậm chí còn cho rằng anh ta suy nghĩ phức tạp lắm nữa!

Ðừng nên nghe người bừa bãi. Ðừng nghe bên này nghe bên nọ rồi không biết ai đúng ai sai. Khi tâm bạn không tự làm chủ thì dễ thành tán loạn, dấy vọng tưởng, sinh phiền não.

Nghe cũng phải biết cách: cần nghe Phật Pháp, chớ nghe chuyện thế tục.

Nghe Phật háp thì được giải thoát, không còn ngã tướng, không còn cái 'tôi'. Nghe chuyện trần tục tức là có chuyện thị phi, phát sinh ra tướng ngã (có 'tôi', có 'anh'; có 'đúng', có 'sai'). Ðó là chủng tử xấu, về sau khó tẩy trừ.

Lời nói đúng sự thật thì bạn mới nên nghe. Lời không đúng chân lý mà bạn nghe vào, thì có thể gieo ảnh hưởng xấu cho kẻ khác, mà tự mình phải gánh chịu quả báo.

Kẻ biết nghe, thì chỉ một hai lời nói là y hiểu ngay; không cần phải kể lể rườm rà.

Khi xưa mấy thầy giảng kinh, họ đều dành lại một phần để người nghe tự tìm hiểu và thể hội. Họ không giảng hết, cũng không kể chuyện cổ tích dài dòng.

Kẻ có căn cơ, thì bạn nói gì là y nghe ngay. Kẻ không có căn cơ thì khi nghe bạn nói, y liền tán dóc, lép nhép không ngừng.

Tự mình phải giác ngộ bản lai diện mục của mình. Nghe (giảng khai thị) chỉ là cảnh giới của Lục trần mà thôi.

3. Pháp Ngữ

Hỏi: Mỗi ngày trì Chú, lạy Phật, lại tu thêm Pháp-Hoa Tam-Muội, song tâm vẫn còn lăng xăng, tạp nhạp là vì sao?

Ðáp: Mình không tự chủ thì không xong. Chuyên tâm niệm Phật, trì Giới, lạy Phật là đủ!

Hễ công việc, sự tình càng nhiều thì bạn càng chấp trước, tâm càng không an định. Ðừng chấp trước vào cái hay cái tốt của kẻ khác. Kẻ có căn cơ thì khi nhìn điều xấu xa của người, y biết vận dụng (tránh phạm cùng lỗi) để tu tiến bộ hơn. Kẻ không có khả năng thì chỉ sinh thêm phiền não.

Muốn định tâm, rất khó. Do đó phải tìm cái tâm bất sanh bất diệt, đừng tìm những thứ sanh diệt bên ngoài. Cần tìm cái mà xưa nay tự-tánh sẵn có. Tất cả mọi thứ nghe được, thấy được, ở bên ngoài, đều không dính dấp gì tới mình (chân-tánh) cả.

Hình tướng người Tỳ-Khưu là hình tướng Phật. Hễ thấy thầy Tỳ-Khưu tới, bạn nên lập tức chắp tay đón chào, lễ lậy. Không cần phải phân biệt, đánh giá thầy này có tu hành, thầy kia không tu hành.

Biết tụng niệm, gõ khánh, đánh chuông là việc rất tự nhiên; không cần để tâm học tập. Khi trí huệ khai mở thì tự nhiên bạn biết làm ngay.

Trong Tam Giáo (Nho, Lão, Phật), thì Nho-giáo dạy đạo đức, lễ, nghĩa, trung, hiếu. Lão giáo tuy cũng dạy tu Ðạo, song không dạy Phật-lý (chân lý cứu cánh), nên không giải thoát. Cuối cùng chỉ có quy nạp về Phật-môn Tịnh-Ðộ (của Phật-giáo), cầu vãng sanh, thì mới liễu thoát sanh tử.

Phật-giáo và Lão-giáo (Ðạo-giáo) rất khác biệt nhau. Tu đạo Phật là vì liễu sanh tử. Tu đạo Lão là để trường sanh bất lão. Song, dù sống tới trăm ngàn tuổi vẫn không phải cứu cánh, vì không thoát được sanh tử.

Trong đạo Lão cũng có nhiều người tu rất tinh tấn, chứng được thân La-hán (như Lã-Ðông-Tân, Hán-Chung-Ly); song, thân La-Hánh của họ không phải cứu cánh. Các vị La-hán bên Phật giáo thì đã đoạn được hai thứ kiến-hoặc và tư-hoặc (Kiến và Tư hoặc là hai thứ si mê của cái nhìn và của tâm tư khiến mình không thấy được Phật-tánh. Hai thứ si mê này rất thâm sâu vì được hình thành và nuôi dưỡng từ nhiều đời nhiều kiếp bởi thói quenchủng tử ô nhiễm lầm lẫn rằng thật có cái 'ta' và vạn pháp), siêu thoát luân hồi. Bên Ðạo-giáo, nhiều vị được thân La-hán cũng không phải chết, có khi họ sống trong núi đến hàng trăm năm.

Chúng ta cốt yếu cần tu để giải thoát sanh tử. Do đó, mình cần phải xả thân, đừng sợ cái thân này cực khổ. Phải nhớ rằng, tu đạo Phật là tu để ba nghiệp (thân, khẩu, ý - hành động, lời nói, ý nghĩ) được thanh tịnh, sáu căn được trong sạch, thoát khỏi cái khổ cả sanh, già, bệnh, chết.

4. Lời Của Thầy Truyền Văn

Ðừng chấp trước tốt, xấu. Ðừng rớt vào cực đoan (nhị biên: vui-buồn, hay-dở, đúng-sai...), Nếu chấp trước vào chuyện xấu, thì vĩnh viễn bạn sẽ bị tắc nghẽn ở chỗ ấy, không thể tiến bộ. Ví như bạn có làm lỗi lầm gì, trong tâm cảm thấy rất thống khổ, hối hận; rồi cứ âu sầu mãi, không thể mở rộng tấm lòng. Nếu bạn cứ mãi ôm chặt chuyện dĩ vãng, thì không thể nào an tâm tu Ðạo được.

Mọi việc đều là huyễn hóa (như hình ảnh, cảnh tượng hiện ra trong bọt xà-bông), đều là không thật. Việc đã qua rồi thì thôi. Cứ chấp chặt, ôm ấp mãi thì chỉ phiền não.

Nguyện thì phát ở trong lòng: không phải đem ra nói. Lòng cần nghị lực, theo nguyện mà làm.

Gặp cảnh tốt hay xấu, chớ có phản ứng ra ngoài mặt: trong lòng biết là đủ.

Sư-Phụ dạy rằng Ngài giống như một cây cầu. Ngài đã đi trước, dựng lên cái cầu để mình đi qua. Ngài không dám tự cho rằng Ngài dạy ai cả. Ngài nói Ngài chỉ kể lại những kinh nghiệm trong quá trình tu hành cho mình nghe, để mình nghiên cứu, học hỏi mà thôi!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12468)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10334)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12316)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11613)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28769)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12020)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12975)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11425)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12341)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17422)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52973)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35454)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21353)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10662)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19203)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12381)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25980)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13292)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14342)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16057)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13705)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16812)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17525)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13104)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12506)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11583)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11573)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14469)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20391)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18932)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19514)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18592)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12157)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12282)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13822)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14949)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15018)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13957)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15496)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11374)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17132)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14933)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20160)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14590)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13803)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11675)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15021)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12968)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22831)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14532)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11615)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13142)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16847)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18310)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11924)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11480)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15816)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12855)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18874)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18379)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant