Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương X: Lời cuối

07 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10667)
Chương X: Lời cuối


Chương X: LỜI CUỐI

1. Thời Ðại Ðã Thay Ðổi Rồi!
Thầy giáo ngày nay và ngày xưa khác nhau xa lắm.

Thời Hán, thầy giáo thì kính trọng đạo đức, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Thời nay, thầy giáo bản thân không làm xong (không đủ đức độ). Phật học ngày nay cũng kém xa ngày xưa.

Hồi xưa ai cũng coi trọng lễ, nghĩa, liêm, sỉ; do đó mới có bậc Thánh Nhân xuất hiện.

Ðời nay không ai những điều ấy là giá trị, vì vậy xã hội ngày càng hỗn loạn. Do đó mình phải có thái độ cung kính đối với kinh điển.

Ngày xưa có người họa sĩ có thể vẽ hình mặt trời hệt như thật, đến độ người ta có thể đem lúa ra phơi dưới bức tranh! Có kẻ vẽ con chim vô cùng sống động, đến độ nó có thể bay thật sự! Sở dĩ họ làm như thế được là do tu luyện mà ra.

Người thời nay ai mà vẽ được con chim biết bay thực sự? Ai ai cũng ỷ lại vào kỹ thuật máy móc hoặc hóa học chế biến cả!

Hiện nay, Phật-giáo trên toàn thế giới đại thể thì có hoằng Pháp, truyền bá. Song le, tuy đạo Phật phổ biến như vậy, nhưng lại rất khó tìm được kẻ chân chánh tu hành. Cũng có kẻ sớm đến với Ðạo, thiện căn khá tốt; song, kẻ xuất gia thì vẫn ít.

Xưa kia, ở chùa bên Ðại Lục (Trung Quốc), việc xuất gia không có dễ dàng đâu. Hễ vừa đi tu là bạn phải làm việc lao động tay chân ở chùa một thời gian (khổ công như cày ruộng, cuốc đất..), rồi sau đó mới được phép làm những việc nhẹ trong chùa.

Ở Ðài Loan (Trung Hoa), việc xuất gia rất phổ biến, rất bình thường; và phần lớn là căn cứ theo học vấn mà xét việc xuất gia.

Ở Ðại Lục xưa kia, xuất gia là để liễu thoát sanh tử: do đó, tu hành cực khổ, học cái khổ hạnh của Phật, Bồ Tát để tu luyện bản thân. Tại Ðại Lục, kẻ xuất gia phải chịu làm việc lao tác cực khổ (khổ hạnh) trong ba năm; có chịu cực khổ thì mới giải thoát được!

Người nay và người xưa khác nhau xa: cổ nhân, Ðạo-tâm có mười phần; người đời nay, Ðạo-tâm chỉ có một phần.

Người tại gia hay xuất gia đời nay sinh hoạt sung sướng, tốt lắm. Khi cuộc sống quá sung sướng thì sẽ sinh ra nhiều tai nạn. Chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì bịnh hoạn cũng sẽ nhiều hơn.

Ăn cơm đạm, mặc áo thô: tu hành là cứ ở đây mà dụng công. Song hiện tại, ai ai cũng nghiên cứu việc ăn ngon, mặc đẹp. Cả ngày bận rộn vì mấy chuyện ấy. Mình nguyện muốn tiêu nghiệp chướng, nay biến thành tiêu hao mất phước huệ; rồi thì nghiệp chướng cũng theo đó mà ùa tới thôi.

Xưa kia cơm, canh, rau cải, thật giản dị - cứ việc bỏ hết vào luộc là xong (gọi là La-hán thái). Giờ đây, ai cũng chú ý, kén chọn việc ăn uống đến độ người xuất gia ăn còn ngon hơn cả kẻ thế tục nữa!

Hồi xưa, ở Ðại Lục, các thầy tu ở chùa mặc thì mặc áo vải bố (thứ vải mặc làm đám tang) nhuộm thành màu xám; ăn thì ăn cháo lỏng như nước lã (do đó chén bát không cần phải rửa kỹ), cộng thêm một chút đồ ăn giản dị; chứ không phải như các bạn bây giờ được ăn cơm trắng, lại có đủ món, nhiều món ăn như vậy.

Chùa chiền ở Trung Hoa xưa kia, hễ ai để đồ đạc bừa bãi thì chùa đều gom góp, tịch thâu lại, bất kể là của ai. Nếu bạn muốn tìm đồ mình mất thì phải đi hỏi Thầy Quản-lý.

Ở chùa bên Trung Hoa khi xưa, khi có ai phạm lỗi lầm, Thầy Quản-lý không cần phải nói dông dài gì cả, mà chỉ việc viết tên người ấy lên bảng bố cáo; người ấy đọc được là tự động rời chùa ngay.

Thời nay, Thầy Quản-lý có tới nói lỗi lầm của bạn (để mời bạn cuốn gói), bạn (chẳng những không thèm nghe) lại còn tranh chấp cãi vã với thầy ấy nữa; thật là sai lệch quá xa!

2. Khai Thị Ngộ Nhập 

Tự mình sanh phiền não, tự mình phải giải mở. Hãy đem lời Sư-Phụ khai thị ra áp dụng.

Sư-Phụ khai thị nhiều như vậy, giờ đây xem bạn thọ trì ra sao.

Kẻ biết nghe, khai thị mới có ích. Kẻ không biết nghe, khai thị cũng vô dụng.

Nghe giảng khai thị, không luận là nghe nhiều hay nghe ít, mà là coi xem nghe vào hay không vào (tâm). Nghe vào tâm rồi thì phải biết áp dụng.

Bạn nghe lời khai thị của Sư-Phụ hay quá. Song hay là Sư-Phụ hay (chứ không phải bạn hay). Vẫn phải cần bạn đem thực hành.

Các bạn lạy tôi làm Thầy; tôi dạy các bạn Phật Pháp. Khi tôi không còn ở đời, các bạn phải theo thứ Pháp này mà tu hành thì Ðạo-tâm mới kiên cố, con đường xuất gia mới viên mãn.

Khi học Phật Pháp, bạn nghe Sư-Phụ khai thị cho một câu thì tự mình phải làm sao giác ngộ, lãnh hội được câu ấy. Không phải cần nhiều lời. Khi lời nhiều thì các bạn vẫn còn bị xoay chuyển.

Hỏi: Sau khi Sư-Phụ viên tịch, nếu chúng con tưởng nhớ Sư-Phụ thì phải làm sao?

Một thầy (Thầy Truyền Vân) phát biểu: 'Chính Phật-tánh của Sư-Phụ nói Pháp, khai thị cho chúng ta; chứ không phải là cái thân giả hợp của Ngài. Có nhớ tưởng tới Ngài thì mình hãy phát tâm dũng mãnh, tinh tấn tu hành!'

Lời tôi giảng là nhắm thẳng vào các bạn. Ðừng nghĩ rằng tôi nói lỗi xấu của riêng bạn hay của người nào đó, rồi sinh ra phiền não, bực bội.

Nếu bạn có lỗi thì hãy tự thừa nhận, sám hối, phản tỉnh, sửa đổi tánh nết, hành vi.

Cứ thường chấp trước thì dễ sinh phiền não. Bạn có phiền não, rồi lại ảnh hưởng, làm kẻ khác cũng bực bội, rồi cả đại chúng đều sinh loạn. Thế thì làm sao 'thống lý đại chúng' làm cho mọi người hoà hợp? Phải sửa mình, tề gia trước, rồi sau mới trị quốc, sửa người được.

Kẻ có tánh thẳng thắn thì tuy lời nói không êm tai, không dễ nghe cho cho lắm, song bạn chớ cho là lời xấu ác. Có kẻ ăn nói hay ho lắm, song tâm thì không tốt gì cả. Do đó, bạn phải chú ý, phải hiểu suốt tâm lý nhân tình.

Nhiều khi kẻ trực tâm lời nói không có ý xấu gì cả, song người nghe thì cong vạy, khúc mắc, xuyên tạc; thậm chí còn cho rằng anh ta suy nghĩ phức tạp lắm nữa!

Ðừng nên nghe người bừa bãi. Ðừng nghe bên này nghe bên nọ rồi không biết ai đúng ai sai. Khi tâm bạn không tự làm chủ thì dễ thành tán loạn, dấy vọng tưởng, sinh phiền não.

Nghe cũng phải biết cách: cần nghe Phật Pháp, chớ nghe chuyện thế tục.

Nghe Phật háp thì được giải thoát, không còn ngã tướng, không còn cái 'tôi'. Nghe chuyện trần tục tức là có chuyện thị phi, phát sinh ra tướng ngã (có 'tôi', có 'anh'; có 'đúng', có 'sai'). Ðó là chủng tử xấu, về sau khó tẩy trừ.

Lời nói đúng sự thật thì bạn mới nên nghe. Lời không đúng chân lý mà bạn nghe vào, thì có thể gieo ảnh hưởng xấu cho kẻ khác, mà tự mình phải gánh chịu quả báo.

Kẻ biết nghe, thì chỉ một hai lời nói là y hiểu ngay; không cần phải kể lể rườm rà.

Khi xưa mấy thầy giảng kinh, họ đều dành lại một phần để người nghe tự tìm hiểu và thể hội. Họ không giảng hết, cũng không kể chuyện cổ tích dài dòng.

Kẻ có căn cơ, thì bạn nói gì là y nghe ngay. Kẻ không có căn cơ thì khi nghe bạn nói, y liền tán dóc, lép nhép không ngừng.

Tự mình phải giác ngộ bản lai diện mục của mình. Nghe (giảng khai thị) chỉ là cảnh giới của Lục trần mà thôi.

3. Pháp Ngữ

Hỏi: Mỗi ngày trì Chú, lạy Phật, lại tu thêm Pháp-Hoa Tam-Muội, song tâm vẫn còn lăng xăng, tạp nhạp là vì sao?

Ðáp: Mình không tự chủ thì không xong. Chuyên tâm niệm Phật, trì Giới, lạy Phật là đủ!

Hễ công việc, sự tình càng nhiều thì bạn càng chấp trước, tâm càng không an định. Ðừng chấp trước vào cái hay cái tốt của kẻ khác. Kẻ có căn cơ thì khi nhìn điều xấu xa của người, y biết vận dụng (tránh phạm cùng lỗi) để tu tiến bộ hơn. Kẻ không có khả năng thì chỉ sinh thêm phiền não.

Muốn định tâm, rất khó. Do đó phải tìm cái tâm bất sanh bất diệt, đừng tìm những thứ sanh diệt bên ngoài. Cần tìm cái mà xưa nay tự-tánh sẵn có. Tất cả mọi thứ nghe được, thấy được, ở bên ngoài, đều không dính dấp gì tới mình (chân-tánh) cả.

Hình tướng người Tỳ-Khưu là hình tướng Phật. Hễ thấy thầy Tỳ-Khưu tới, bạn nên lập tức chắp tay đón chào, lễ lậy. Không cần phải phân biệt, đánh giá thầy này có tu hành, thầy kia không tu hành.

Biết tụng niệm, gõ khánh, đánh chuông là việc rất tự nhiên; không cần để tâm học tập. Khi trí huệ khai mở thì tự nhiên bạn biết làm ngay.

Trong Tam Giáo (Nho, Lão, Phật), thì Nho-giáo dạy đạo đức, lễ, nghĩa, trung, hiếu. Lão giáo tuy cũng dạy tu Ðạo, song không dạy Phật-lý (chân lý cứu cánh), nên không giải thoát. Cuối cùng chỉ có quy nạp về Phật-môn Tịnh-Ðộ (của Phật-giáo), cầu vãng sanh, thì mới liễu thoát sanh tử.

Phật-giáo và Lão-giáo (Ðạo-giáo) rất khác biệt nhau. Tu đạo Phật là vì liễu sanh tử. Tu đạo Lão là để trường sanh bất lão. Song, dù sống tới trăm ngàn tuổi vẫn không phải cứu cánh, vì không thoát được sanh tử.

Trong đạo Lão cũng có nhiều người tu rất tinh tấn, chứng được thân La-hán (như Lã-Ðông-Tân, Hán-Chung-Ly); song, thân La-Hánh của họ không phải cứu cánh. Các vị La-hán bên Phật giáo thì đã đoạn được hai thứ kiến-hoặc và tư-hoặc (Kiến và Tư hoặc là hai thứ si mê của cái nhìn và của tâm tư khiến mình không thấy được Phật-tánh. Hai thứ si mê này rất thâm sâu vì được hình thành và nuôi dưỡng từ nhiều đời nhiều kiếp bởi thói quenchủng tử ô nhiễm lầm lẫn rằng thật có cái 'ta' và vạn pháp), siêu thoát luân hồi. Bên Ðạo-giáo, nhiều vị được thân La-hán cũng không phải chết, có khi họ sống trong núi đến hàng trăm năm.

Chúng ta cốt yếu cần tu để giải thoát sanh tử. Do đó, mình cần phải xả thân, đừng sợ cái thân này cực khổ. Phải nhớ rằng, tu đạo Phật là tu để ba nghiệp (thân, khẩu, ý - hành động, lời nói, ý nghĩ) được thanh tịnh, sáu căn được trong sạch, thoát khỏi cái khổ cả sanh, già, bệnh, chết.

4. Lời Của Thầy Truyền Văn

Ðừng chấp trước tốt, xấu. Ðừng rớt vào cực đoan (nhị biên: vui-buồn, hay-dở, đúng-sai...), Nếu chấp trước vào chuyện xấu, thì vĩnh viễn bạn sẽ bị tắc nghẽn ở chỗ ấy, không thể tiến bộ. Ví như bạn có làm lỗi lầm gì, trong tâm cảm thấy rất thống khổ, hối hận; rồi cứ âu sầu mãi, không thể mở rộng tấm lòng. Nếu bạn cứ mãi ôm chặt chuyện dĩ vãng, thì không thể nào an tâm tu Ðạo được.

Mọi việc đều là huyễn hóa (như hình ảnh, cảnh tượng hiện ra trong bọt xà-bông), đều là không thật. Việc đã qua rồi thì thôi. Cứ chấp chặt, ôm ấp mãi thì chỉ phiền não.

Nguyện thì phát ở trong lòng: không phải đem ra nói. Lòng cần nghị lực, theo nguyện mà làm.

Gặp cảnh tốt hay xấu, chớ có phản ứng ra ngoài mặt: trong lòng biết là đủ.

Sư-Phụ dạy rằng Ngài giống như một cây cầu. Ngài đã đi trước, dựng lên cái cầu để mình đi qua. Ngài không dám tự cho rằng Ngài dạy ai cả. Ngài nói Ngài chỉ kể lại những kinh nghiệm trong quá trình tu hành cho mình nghe, để mình nghiên cứu, học hỏi mà thôi!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33316)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6570)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11312)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30423)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30450)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7997)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12225)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12273)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11622)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12853)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34818)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9862)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52288)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10767)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10540)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10730)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10479)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13099)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16309)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21871)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9640)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7139)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12785)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12808)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16255)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16551)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13882)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16616)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12145)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13857)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14342)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9227)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11769)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11292)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16355)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14370)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16213)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12703)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12100)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11808)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11528)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14032)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12681)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11978)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13144)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14571)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20747)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10980)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20737)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14381)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20411)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17678)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14039)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31871)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12030)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant