Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

196. Kinh Châu-Na

05 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 22702)
196. Kinh Châu-Na

KINH TRUNG A-HÀM
Hán dịch: Phật Đà Da XáTrúc Phật Niệm
 Việt dịch và hiệu chú: Thích Tuệ Sỹ
Sài gòn 2002

196. KINH CHÂU NA [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật du hóa tại nước Bạt Kỳ, thôn Xá Di [2].

Bấy giờ sa di Châu Na [3], kiết hạ ở Ba Hòa [4]. Tại xứ Ba Hòa có một Ni Kiền tên là Thân Tử [5]. Nơi đây, vị ấy qua đời. Sau khi qua đời không bao lâu, các đệ tử Ni Kiền thân tử chia rẻ và phá hoại nhau, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau. Họ tranh đấu, kiện tụng cột trói nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết? Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi nói sau, điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại”. Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn, mà không có người nào để khiển trách. Nếu có những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nãn và lãng xa các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác pháp luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ Sa di Châu Na đã qua ba tháng an cư mùa mưa, sửa vá lại y áo, rồi mang y cất bát đến thôn Xá Di, rồi qua phía bắc thôn Xá Di, đến rừng Thi Nhiếp Hòa. Sa di Châu Na đến chỗ Ngài A Nan. Sau khi đến nơi, đảnh lễ sát chân Ngài A Nan, rồi ngồi qua một bên.

Tôn giả A Nan hỏi: [6]

Này Hiền giả Châu Na! Từ đâu đến đây và an cư mùa mưa ở đâu?

Sa di Châu Na đáp:

Bạch Tôn giả A Nan! con từ Ba Hòa đến, và an cư mùa mưa ở Ba Hòa. Bạch Tôn giả! Tại Ba Hòa có một ni Kiền tên là Thân Tử. Nơi đây, Thân Tử mới qua đời chưa bao lâu thì đệ tử của Ni Kiền Thân Tử đã chia rẽ và phá hoại, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau, thù nghịch nhau, họ đấu tranh kiện tụng, cột trói nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết. Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi nói sau. Ðiều đáng nói sau, ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục ngươi, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ cho mình nói hơn mà không có người nào để khiển trách. Nếu có những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nản và lãng xa, các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói đây là những điều ác pháp luật không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại không thể đứng vững không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.

Tôn giả A Nan nghe xong, nói rằng: "Này Hiền giả Châu Na, nhân dịp này, chúng ta có thể đến yết kiến đức Phật, đem sự việc này trình bày lên Ngài. Này Hiền giả Châu Na, bây giờ chúng ta cùng đi đến đức Phật, đem tất cả sự việc này trình lên cho đức Thế Tôn. Thảng hoặc, chúng ta có thể nhân đó mà được nghe pháp khác nữa từ đức Thế Tôn.

Rồi Tôn giả A Nansa di Châu Na cùng nhau đến chỗ đức Phật, chắp tay cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài, Tôn giả A nan đứng qua một bên và Châu Na ngồi xuống một bên. Tôn giả A nan bạch với đức Thế Tôn:

Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay sa di Châu Na đi đến chỗ con, cúi đầu đảnh lễ sát chân rồi ngồi qua một bên. Con hỏi: này Hiền giả Châu Na, từ nơi nào đến đây và an cư mùa mưa ở đâu? Sa di Châu Na liền trả lời với con rằng: "Thưa Tôn giả A Nan, con từ Ba Hòa đến, an cư mùa mưa ở Ba Hòa. Bạch Tôn giả A nan! Tại Ba Hòa có một Ni Kiền tên là Thân Tử. Nơi đây, Thân Tử mới qua đời không bao lâu thì các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử đã chia rẽ và phá hoại nhau; họ đấu tranh, kiện tụng, cột trói lẫn nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi nói sau, điều đáng nói sau ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ ta sẽ cột trói ngươi.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn mà không có người nào để khiển trách.

Nếu có những người bạch y tại gia, đêï tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nản và lãng xa các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác pháp luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại không thể đứng vững, không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy của họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.

Bạch Thế Tôn! Con nghe rồi kinh sợ hãi hùng, toàn thân lông tóc dựng đứng. Mong sau khi Thế Tôn khuất bóng, đừng có một vị Tỳ kheo nào ở trong chúng mà gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy, không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc, cho đến loài trời và loài người cũng phải chịu đau khổ và tại hoạn. Bạch Thế Tôn! khi con thấy một vị Tỳ kheo ngồi trước đức Thế Tôn chí tâm kính trọng đức Thế Tôn, khéo bảo vệ đấng Thiện thệ. Bạch Thế Tôn! Con thấy như vậy rồi liền nghĩ: "Nếu sau này khi Thế Tôn khuất bóng mà vị Tỳ kheo ấy trong chúng gây sự đấu tranh, thì đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây đau khổ cho mọi người, nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu đau khổtai hoạn.

Bấy giờ đức Thế Tôn hỏi: "Thầy thấy những điều nào khiến chúng tăng có sự đấu tranh, sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn?

Tôn giả A Nan thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Ðó là do tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng quán [7] mà phát sanh sự đấu tranh ở trong chúng. Bạch Thế Tôn, sự đấu tranh ấy, không giúp gì cho ai mà chỉ gây đau khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi, không phải là sự hữu ích. Không phải là sự an ổn, khoái lạc cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu tai hoạn, đau khổ.

Ðức Thế Tôn nói:

Này A nan! Nếu đấu tranh do bởi giới tăng thượng, tâm tăng thượng, quán tăng thượng thì sự đấu tranh ấy quá nhỏ nhặt. Này A nan! Nếu có sự đấu tranh trong chúng tăng do đạo và đạo tích [8] thì sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn khoái lạc. Này A Nan! Khi thầy thấy ở trong đấy có hai vị Tỳ kheo vì mỗi người có mỗi ý kiến khác nhau mà gây ra cuộc đấu tranh mà nói rằng: "Ðiều này là pháp, điều này là phi pháp. Ðiều này là luật, điều này không phải luật. Ðiều này là phạm, điều này không phải là phạm. Ðiều này là nhẹ, điều này là nặng. Có thể sám hối, không thể sám hối. Có thể thủ hộ, không thể thủ hộ. Hữu dư, vô dư, thối, bất thối. Này A Nan! Ý thầy nghĩ sao? Ðối với pháp tu của Ta được tự giác, tự thân chứng ngộ, gồm bốn niệm xứ, bốn như ý túc, năm căn, năm lục, bảy giác chi, tám chi thánh đạo? Này A Nan! Nếu Ni Kiền Thân Tử, biết tất cả, thấy tất cả thì vị ấy đã vì đệ tửgiảng giải sáu gốc rễ của đấu tranh [10] đều đáng được nghe, nhưng lại thôi.

Bấy giờ Tôn giả A Nan chắp tay hướng về đức Phật bạch rằng:

Bạch Thế Tôn! Nay thật là đúng lúc. Bạch Thiện thệ! Nay thật hợp thời, nếu Thế Tôn dạy về sáu gốc rễ của sự đấu tranh cho các Tỳ kheo. Các Tỳ kheo sau khi nghe Thế Tôn dạy sẽ khéo léo thọ trì.

Ðức Thế Tôn bảo:

Này A Nan, hãy nghe kỹ; hãy suy nghĩ kỹ. Ta sẽ phân biệt đầy đủ. Tôn giả A Nan bạch rằng:

Kính vâng, xin vâng lời lắng nghe.

Ðức Phật dạy:

Này A Nan! Ở đây có một người bị kiết sử phẫn và hận quấn chặt[11] . Này A Nan! Người ấy bị kiết sử phẫn và hận quấn chặt cho nên không cung kính tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật. Người ấy đã không cung kính tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật, ở trong chúng nó gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người, không phải sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn khoái lạc, cho đến trời người phải chịu đau khô và tai hoạn. Này A Nan! Nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay bên ngoài mà không dứt hết được. Vậy, để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kiên nhẫn, đừng để thối thất. Này A Nan! Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, đốt cháy áo, thì phải cấp tốc tìm phương tiện để chửa cháy đầu, chửa cháy áo . Cũng vậy, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên ngoài mà không dứt hết được. Vậy để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A nan! Sự đấu tranh cũng như vậy, nếu thầy thấy được suốt trong và ngoài, thầy phải thủ hộ cái tâm đó hơn nữa, luôn luôn không buông lung, vì để ngăn chận sự đấu tranh ấy vậy. [12] Cũng giống như vậy với các kiết sử phú tàng [13] , bỏn xẻn, tật đố, dua nịnh, dối trá, vô tàm, vô quý, ác dục, tà kiến, và ác tánh không biết phục thiện. [14]

Này A Nan! Nếu một người nào có ác dục, tà kiến, ác tánh, không biết phục thiện thì người ấy không tâm cung kính tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật, rồi ở trong chúng nó gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Không phải là thiện lợi, không phải là hữu ích, không phải là an ổn khoái lạc, cho đến trời người cũng phải chịu đau khổtai hoạn. Này A Nan! Nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay ở bên ngoài, mà không biết suốt hết được. Vậy để ngăn chận sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện học tập tinh cần, chánh niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A nan! Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, đốt cháy áo thì phải cấp tốc tìm cầu phương tiện để chửa cháy đầu, cháy áo. Cũng vậy, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên ngoài mà không biết suốt hết được, vậy để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A Nan! Nếu sự đấu tranh như vậy mà thầy thấy suốt hết trong và ngoài, thầy phải hết sức thủ hộ cái tâm ấy hơn nữa, luôn luôn không buông lung, vì để ngăn chận sự đấu tranh ấy vậy. Thầy phải đoạn trừ gốc rễ của sự đấu tranh ấy.

Lại nữa, này A nan! Có bảy phương pháp diệt trừ đấu tranh [15] . Bảy phương pháp đó là: Một là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật, hai là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Ba là ưng dữ bất si dữ tránh luật, bốn là ưng dữ phát lồ chỉ tránh luật, năm là ưng dữ quân chỉ tranh luật, sáu là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật, bảy là ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tranh luật.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh này? tức là luật chấm dứt đấu tranh bằng sự hiện diện. Này A Nan! Hoặc một người đối với một người, mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Một người đối với hai người, một người đối với nhiều người, một người đối với chúng tăng mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với nhiều người, hai người đối với chúng tăng, hai người đối với một người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với nhiều người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với chúng tăng, nhiều người đối với một người, nhiều người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Chúng tăng đối với một người, chúng tăng đối với hai người, chúng tăng đối với nhiều người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. [17] Này A Nan! Như vậy gọi là Ưng dữ hiện tiền chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự hiện diện.

Này A Nan! Thế nào là Ưng dữ ức chỉ tránh luật? làm thế nào để đọan trừ sự tranh đấu này? Tức là do chấm dứt đấu tranh bằng nhớ lại. Này A Nan! Nếu có một người nào phạm giới mà không nhớ lại giới mình đã phạm. Các thầy Tỳ kheo thấy vậy, nói với vị ấy rằng:

Thầy đã phạm giới mà không nhớ lại giới mình đã phạm. Thầy hãy đến trong chúng mà xin luật ức niệm. Tăng chúng sẽ ban cho hiền giả luật ức niệm. Này A nan! nếu ở một nơi nào có tăng chúng hòa hiệp mà nhóm họp vị Tỳ kheo kia phải đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chắp tay quỳ mọp mà bạch với các trưởng lão thượng tôn rằng: Bạch chư tôn, mong các ngài nghe cho, con đã từng phạm giới mà không nhớ, hay con từ nơi chúng tăng cầu xin luật ức niệm. Mong tăng chúng hòa hợp ban cho con luật ức niệm.

Này A nan! Tăng chúng hòa hợp lại để ban cho vị Tỳ kheo này luật ức niệm, bằng pháp và luật như tôn sa đã chỉ dạy, với sự hiện diện khiến cho được hoan hỷ. [19] . Này A Nan! Như vậy gọi là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng cách nhớ lại.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ bất si chỉ tránh luật? [20] Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức là luật chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng. Này A nan! nếu có một người do phát cuồng mà tâm điên đảo, nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, không phải là pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà nói vi phạm. Người ấy sau khi trở lại tâm trạng như trước, gặp các Tỳ kheo và được bảo rằng: "Thầy đã phát cuồng và tâm điên đảo, do phát cuồng và tâm điên đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, không phải pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà nói vi phạm. Này Hiền giả! Nếu Hiền giả sau khi trở lại tâm trạng như trước, hiền giả có thể đến nơi chúng tăngcầu xin luật bất si. Chúng tăng sẽ ban cho hiền giả luật bất si. Này A Nan , nếu một nơi nào đó tăng chúng đang hòa hợp và nhóm hội, vị Tỳ kheo ấy nên đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong tăng chúng, cúi đầu lễ sát dưới chân các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo chắp tay quì mọp, mà bạch với các trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo rằng: "bạch chư tôn, xin nghe cho, con đã từng phát cuồng và tâm điên đảo. Do con đã phát cuồng và tâm điên đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh không phải là pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà còn nói vi phạm. Về sau con trở lại tâm trạng như trước. Nay con từ nơi chúng tăng xin cầu luật bất si. Mong chúng tăng hòa hợp ban cho con luật bất si. Này A Nan, chúng tăng cùng hòa hợp và nhóm hội, ban cho vị Tỳ kheo ấy luật bất si, bằng pháp và luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện, khiến được hoan hỷ. Này A Nan, đó gọi là ưng dữ bất si chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ tự phát lồ chỉ tranh luật [21]? Sự đấu tranh làm thế nào để chấm dứt? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự tự thú nhận. Này A Nan, nếu có một người phạm giới, hoặc nói ra hay không nói ra, hoặc có nhớ hay không nhớ. Này A Nan , nếu tại nơi nào đó có chúng tăng đang hòa hợp và nhóm hội. Vị Tỳ kheo kia nên đến đó, trịch vai áo, bỏ giốc, vào trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chắp tay quì mọp mà bạch rằng: "Bạch chư tôn, xin nghe cho, con phạm giới đó, con nay hướng về các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chí tâm phát lồ, tự mình nói và trưng bày rõ, không dám che dấu, từ nay về sau sẽ khéo léo hộ trì không tái phạm. Này A nan , chúng Tỳ kheo nên hỏi vị ấy rằng: "Này Hiền giả, có tự thấy điều mình phạm không?" Vị Tỳ kheo ấy đáp: "Con thật sự có thấy điều con phạm”. Ðại chúng cũng nên nói với vị ấy rằng: "Hiền giả nên cẩn thận giữ gìn đừng tái phạm”. [22] Này A Nan! Ðó là ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự từ thú nhận.

Này A Nan! Thế nào là Ưng dữ quân chỉ tranh luật? [23] Làm sao để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng chín đương nhơn. Này A Nan! Nếu có người không biết xấu hổ, không hối hận những tội bị thấy, bị nghe và bị người khác nghi ngờác dục. người ấy đã phạm giới rồi nói là mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình biết ở một nơi này, lại nói mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình thấy ở một nơi, lại nói mình biết ở một nơi. Ở trong tăng chúng mà nói là mình biết ở một nơi, ở trong tăng chúng mà nói là mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một nơi, rồi lại nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này A Nan! Vì vị Tỳ kheo ấy, tăng chúng hòa hiệp và nhóm họp mà ban luật Dương nhơn [24] mà nói rằng: "Nhà ngươi không đạo lý, nhà ngươi ác bất thiện. Vì sao? Vì ngươi đã phạm giới rồi lại nói mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một nơi, rồi lại nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi, rồi lại nói mình biết ở một nơi. Ở trong chúng mà nói mình biết ở một nơi. Ở trong chúng mà nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này A Nan! Như vậy gọi là Ưng dữ quân chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ bằng sự như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng chính dương nhơn.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật [25]? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? tức là do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự diển tiến. Này A Nan! Ở đây, giữa hai vị Tỳ kheo vì một số ý kiến mà gây ra sự đấu tranh như vầy: "Ðây là pháp, đây phi pháp. Ðây là luật, đây không phải là luật; đây là phạm, đây không phải là phạm; đây là nhẹ, đây là nặng; điều này nên nói, điều này không nên nói; điều này đáng thủ hộ, điều này không đáng thủ hộ; điều này còn dư, điều này không còn dư; điều này có thể sám hối, điều này không thể sám hối. Này A Nan! Vị Tỳ kheo kia ngay tại chỗ đang cải vã ấy mà chấm dứt đấu tranh. Nếu ngay tại chỗ cải vã mà chấm dứt đấu tranh, thì sự đấu tranh này được tuyên bốchấm dứt. Nếu ngay tại chỗ cải vã mà không chấm dứt, có thể đưa sự đấu tranh ra bạch với chúng tăng. Nếu ở trong chúng tăngchấm dứt, thì sự đấu tranh ấy được tuyên bốchấm dứt. Nếu trong chúng tăng không chấm dứt, thì này A Nan! Ở trong đó, gần đó có Tỳ kheo giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận [26] , các Tỳ kheo kia cùng đến vị này thưa việc đấu tranh ấy. Nếu ngay trên đường đi mà chấm dứt, thì sự đấu tranh được tuyên bốchấm dứt. Nếu ngay trên đường đi mà không chấm dứt, lại hãy đem sự đấu tranh ấy nói trước chúng tăng. Nếu ở trước chúng tăngchấm dứt, sự đấu tranh ấy được tuyên bốchấm dứt. Nếu ở tại chúng tắng mà không chấm dứt thì này A Nan, nếu nhiều trò bạn giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận, thì các vị này phải chấm dứt sự đấu tranh ấy bằng pháp và luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Này A Nan, như vậy gọi là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức là do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự triển chuyển.

Này A Nan! Thế nào gọi là Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật[27]? Làm sao để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? tức là luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách. Này A Nan! Nếu các vị Tỳ kheo ở chung một chổ tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau. Này A Nan! Do đó các Tỳ kheo kia chia ra hai nhóm. Sau khi chia ra hai nhóm rồi, trong một nhóm có bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, hay dưới trưởng lão một bậc; hoặc có người làm tông chủ hay nhỏ hơn tông chủ một bậc. Này A Nan! Vị Tỳ kheo này nói với các vị Tỳ kheo kia rằng: "Này chư hiền, xin nghe cho, chúng ta không có đạo lý, chúng ta là người ác bất thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta đối với pháp và luật được khéo giảng dạy mà chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, để học đạo, nhưng chúng ta tranh chấp kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau, cải vã nhau. Này chư hiền do sự tranh chấp này mà chúng ta đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu lan giá [28] và ngoại trừ tội tương ưng với hàng tại gia. Tôi vì chính mình và cũng vì chư hiền nữa, nên hướng đến chư hiền phát lồ, tự nói mà trình bày rõ ràng, không dám che dấu, lại cẩn thận giữ gìn sau không tái phạm nữa.

Này A Nan! nếu ở trong nhóm này mà không có vị Tỳ kheo nào ứng theo, thì này A Nan! Tỳ kheo ấy nên đi đến nhóm thứ hai. Ðến nơi rồi, cúi đầu đảnh lễ các bậc thượng tôn trưởng lão Tỳ kheo chắp tay quì mọp mà thưa rằng: "Thưa chư tôn, xin nghe cho, chúng ta không có đạo lý, chúng ta là người ác bất thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta đối với pháp và luật được khéo giảng dạy mà chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo, nhưng chúng ta tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau, cải vã nhau. Này chư hiền, do sự tranh đấu này mà chúng ta đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu lan giá, và ngoại trừ tội tương đường với hàng tại gia. Tôi vì chính mình và cũng vì chính chư hiền nữa, nên hướng đến chư hiền chí tâm phát lồ, tự nói mà trình bày rõ ràng, không dám che giấu, lại cẩn thận giữ gìn sau không tái phạm nữa.

Này A Nan! các Tỳ kheo kia nên nói với vị Tỳ kheo này như vầy: "Này hiền giả! Thầy tự thấy mình phạm giới chăng?

Vị Tỳ kheo này đáp:

Quả thật tôi tự thấy mình đã phạm giới.

Tỳ kheo kia nên nói:

Vậy hãy cẩn thận giữ gìn, đừng để tái phạm."

Nhóm thứ hai cũng làm như vậy. Này A Nan, như vậy gọi là Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật. Này A Nan! Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách.

Này A Nan! Nay ta nói cho thầy sáu pháp ủy lao [29] , hãy lắng nghe kỹ, hãy khéo suy nghĩ kỹ. Tôn giả A Nan bạch rằng: Kính vâng, con xin vâng lời lắng nghe. Ðức Phật dạy:

Thế nào là sáu: Thần nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm hạnh [30] , pháp ấy gọi là pháp ủy lao. Ðó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Khẩu nghiệp nói năng từ hòa, ý nghiệp từ hòa, có lợi lộc nào đúng pháp mà được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình bát của mình, với phần lợi như vậy, mang chia xẻ cho các vị đồng phạm hạnh [32] , pháp đó gọi là pháp ủy lao, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho ái niệm khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Nếu có giới nào không bị sứt mẽ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị đen, vững vàng như mặt đất [33] được thánh khen ngợi, đầy đủ cẩn thận, thọ trì. Với giới phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh [34] , pháp đó là pháp ủy lao, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Nếu có kiến giải của thánh có sự xuất yếu, có sự thấy rõ, có sự thấu triệt, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiến phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh, [35] , pháp đó là pháp ủy lao là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Này A Nan! Ta vừa nói sáu pháp ủy lạo, vì vậy mà ta giảng giải. Này A Nan! Nếu các thầy đối với sáu gốc rễ của đấu tranh mà đoạn tuyệt hoàn toàn, và với bảy pháp chấm dứt đấu tranh, khi trong tăng chúng khởi lên đấu tranh, thì chấm dứt bằng luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy lạo ấy, thì này A Nan! Như vậy sau khi Ta khuất bóng, các con sống cộng đồng hòa hợp hoan hỷ không tranh chấp, cùng đồng nhất trong một tâm, cùng đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp như nước với sữa, khoái lạc du hành như lúc Ta còn tại thế.

Ðức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A Nan và chư Tỳ kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

-ooOoo-

Chú thích:

[1] Tương đương Pali: M.103. Sàmagàma sutta.

[2] Bạt Kỳ, Xá di thôn: Địa danh này khó đồng nhất với Pali: Sakkesu [...] Sàmagame, là một ngôi làng của giòng họ Sakya.

[3] Sa di Châu Na: Cunda samuddesa. Được đồng với Maha Cunnda em ruột ngài Saributta và đắc quả A na hàm trong lúc làm sa di. [xem PP.11.877-8] .

[4] Ba Hòa: Pàvà , một thị trấn của bộ tộc Malla. Đoạn đường cuối cùng của Phật, đi từ Pàvà đến Kusinàrà và ngài dừng chân để nghỉ 25 lần trên đoạn đường ấy.

[5] Ni Kiền Thân Tử: Nigantha-Nàta-punta. Một trong lục sư ngoại đạo.

[6] Ngài A Nan là bổn sư của Châu Na.

[7] Bản Pali: do ajihàjìva và do adhipatimokkha:Tăng thượng hoặc mạn và tăng thượng giới bổn. [Bản Việt: III.tr.244-245] , cả hai đều chỉ liên hệ đến giới luật. Bản Hán nói do cả giới định tuệ.

[8] Đạo và đạo tích: Pali: Magga và Pàtipàda. Con đường dẫn đến chứng ngộ và sự tụ tập con đường ấy.

[9] Tát vân nhã: phiên âm trong Pali: Sabbannu.

[10] Lục tranh bốn:

[11] Sân não kết triền: Phẩn hận và thù nghịch.

[12] Trong bản hán có một đoạn lặp lại, từ chỗ: "Ví như có người bị lửa cháy đầu”, cho đến đây.

[13] Bất ngũ kết:

[14] Ac tánh bất khả chế: thuật ngữ thường nói là: "Ác tánh bất thọ nhơn ngữ ! Tánh ương ngạnh không chịu nghe lời. Đoạn này tóm tắt, liệt kê các cập kiết sử làm nguyên nhân cho đấu tranh, có thể xếp loại theo thuật ngữ thông dụng: Phẩn-hận, phú, não, tật, xan, cuồng, siểm, vô tàn vô quý, ác dục, tà kiến, xem thêm đối chiếu kinh 98 trên. Xem giải thích Tập Dị 15 [DTK.1536, tr.431a-b]

[15] Thất chỉ tránh: Thuật ngữ luật tạng thường nói là: Thất diệt tránh pháp: Pali: Satta adhikarapa samathà.

[16] Ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật: nói là Hiện tiền Tỳ ni: Nếu phán quyết về một tội trạng của một Tỳ kheo, hoặc trục xuất hoặc nói các biện pháp chế tài, phải có sự hiện diện của Tỳ kheo ở đó, ở đây, Phật cũng giảng giải về các cách phán quyết hiện diện đó. Pali: Sammukkhàvinaya dàtabba .

[17] Các trường hợp áp dụng luật hiện tiền: Có trường hợp chỉ cần một người chỉ trích một người, có trường hợp phải do số đông. Luật tạng còn phân biệt chi tiết, phải đủ ba yếu tố hiện tiền, phán quyết nói có giá trị: Pháp hiện tiền: dẫn chứng các lời Phật dạy. Luật hiện tiền: nêu rõ điều luật bị phạtnhơn hiện tiền: phải có sự hiện diện của đương sự. Nếu trường hợp cần đại tăng, phải thêm hai yếu tố. Đó là Tăng hiện tiền, và giới hiện tiền, tức giới hạn của phòng hợp với sự hạn chế được luật quy định [Xem luật Tứ Phần, 17. DTK.1428, tr.915c-7c] .

[18] Ưng dữ ức chỉ tránh luật: cũng thường nói là ức niệm Tỳ ni.

[19] Tỳ kheo Đáp bà ma la bị các vị khác nghi ngờ phạm trọng tội, nên nhiều lần bị cật vấn, và do đó rất khổ tâm về vụ này. Nhân đó Phật thiết lập luật ức niệm tỳ ni, để vị ấy đến trước tăng chúng nói rằng mình không nhớ, và khi chúng tăng đã phán quyết theo luật ức niệm tỳ ni, không ai được coi vị ấy là người đã phạm tội [Luật tứ Phần, dd, tr, 914a] .

[20] Bất si chỉ tránh luật: cũng thường nói là bất si tỳ ni.

[21] Ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật: Cũng nói là Tự ngôn trì Tỳ nại da: Thông thường hơn: Tự ngôn trị diệt tránh:

[22] Vào ngày Bố tát, Tôn giả A Nan thỉnh Phật đến trước chúng tăng thuyết giới. Phật từ chối, Ngài nói không thuyết giới kiết ma trước một đại chúng không thanh tịnh. Tôn giả Mục Kiền Liên nhân đó quán sát chúng tăng, biết được một Tỳ kheo phạm giới, bèn đến nắm tay kéo ra khỏi giới trường. Phật liền trách Mục Kiền Liên, và thiết lập điều luật này: Trước khi phán quyết một Tỳ kheo phạm giới, phải làm cho vị ấy nhận tội đã. [dd, tr.915a]

[23] Ưng dữ quân chỉ tránh: cũng nói: cầu bỉ tự tánh tỳ nại da: hay thông thường hơn: mích tội tướng.

[24] Quân luật: luật áp dụng cho chính Ngài. Vì vị này khi bị hỏi tội, cứ nói loanh quanh, nên tăng chúng phải chỉ định ngay tội danh: Chính Ngài đã phạm tội.

[25] Ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật: cũng nói là Thủ đa nhơn tỳ nại da: hay Đa mích tội tướng:

[26] Trì mẫu: hay nói Trì ma di: [Luật Tứ Phần 17, DTK.1428, tr.918b] .

[27] Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật: cũng nói: Như thảo phú địa Tỳ nại da:

[28] Thâu lan thác: thường nói là Thâu lan giá: các tội nhẹ hơn Ba la di [tội trục xuất] và tăng già bà thi sa [tội biệt chúng] một bậc.

[29] Lạc ủy lạo pháp: sáu pháp này thường được biết là sáu pháp hòa kỉnh hay lục hòa. Tập dị 15 [DTK.1536, tr.431b] , gọi là sáu pháp khả hỷ.

[30] Từ thân nghiệp: Đây là thân hòa đồng trú .

[31] Từ khẩu nghiệp, từ ý nghiệp: thường nói: Khẩu hòa vô tránh và ý hòa đồng duyệt.

[32] Lợi hòa đồng quân.

[33] Như địa bất tùy tha.

[34] Giới hòa, kiến hòa.

[35] Kiến hòa đồng giải.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12566)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10173)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12354)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15348)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12111)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11189)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12091)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12559)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13533)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11643)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12772)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12618)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12906)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10315)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15320)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12223)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14276)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19709)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24614)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant