Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Quyển Một

30 Tháng Mười 201200:00(Xem: 15418)
01. Quyển Một

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Hán dịch: Bát Thích Mật Đế - Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

QUYỂN NHẤT

ÐỀ-MỤC KINH

Kinh Ðại-Phật-đỉnh, Như-lai mật-nhân, tu-chứng liễu-nghĩa, chư Bồ-tát vạn-hạnh, Thủ-lăng-nghiêm (Suramgama), gọi tắt là Kinh Thủ-lăng-nghiêm.

Sa-môn tên là Bát-lạt-mật-đế, người Thiên-trúc dịch.

Sa-môn tên là Di-già-thích-ca người Ô-trành, dịch theo tiếng Trung-quốc.

Ðệ-tử thụ Bồ-tát-giới, tên là Phòng-Dung, chức Ðồng-trung-thư môn-hạ Bình-chương-sự, ghi-chép lời dịch.

PHẦN THỨ NHẤT - PHẦN TỰA

CHƯƠNG I

TỰA CHUNG

Như vậy tôi được nghe trong một thời, Phật ở tịnh xá Kỳ-Hoàn thành Thất-La-Phiệt, cùng với chúng đại-tỷ-khưu một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc vô lậu Ðại-A-la-hán. Các vị phật-tử trụ-trì, khéo vượt trên chư hữu, ở các quốc-độ đầy-đủ uy-nghi, theo Phật chuyển Pháp-luân, có khả-năng thật-hiện lời di-chúc nhiệm-mầu của Phật, nghiêm-giữ giới-luật thanh-tịnh để làm khuôn phép cho ba cõi, hiện thân vô số, cứu-vớt chúng-sinh, tột đời vị-lai, khỏi các trần-lụy. Các vị tên là : Ðại-trí Xá-lỵ-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Câu-si-la, Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử, Tu-bồ-đề, Ưu-ba-ni-sa-đà làm thượng-thủ.
Lại có vô số các vị Bích-chi vô-học và sơ-tâm đồng đến chổ Phật giảng đạo.
Nhằm ngày các vị tỷ-khưu mãn hạ tự-tứ, các vị Bồ-tát, từ mười phương đến, xin Phật giải-quyết nghi-hoặc, kính vâng đức Từ-Nghiêm, thỉnh-cầu nghĩa thâm-mật.
Ðức Như-Lai giải pháp-tọa, ngồi khoan-thai, vì cả trong Hội tỏ-bày nghĩa sâu. Chúng Hội thanh-tịnh được pháp chưa từng có. Giọng nói của Phật hòa-nhã như tiếng chim ca-lăng-tầng-già, nghe khắp mười phương. Hằng sa Bồ-tát đều đến đạo-trường, có ngài Văn-thù-sư-lỵ làm thượng-thủ.

CHƯƠNG II

TỰA RIÊNG

DUYÊN-KHỞI CỦA KINH

Khi ấy vua Ba-tư-nặc, nhân ngày kỵ phụ-vương, mở tiệc chay mời Phật thụ-trai nơi cung-cấm; vua sắm đủ các món ăn quý-báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Ðại-Bồ-Tát. Trong thành lại có các trưởng-giả cư-sĩ đồng-thời cùng trai-tăng, chờ Phật đến chứng. Phật khiến ngài Văn-thù chia lãnh các vị Bồ-Tát và A-la-hán đi đến các nhà trai-chủ.
Duy có ông A-nan trước đả nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng-chúng. Ông về một mình, không có Thượng-tọa và A-xà-lê cùng đi và ngày ấy cũng không được ai cúng-dường. Lúc bấy giờ ông cầm bình-bát vào trong một thành trên đường đi, theo thứ lớp khất-thực; tâm ông trước hết cầu được một người tối hậu đàn-việt làm trai-chủ, không kể sang hèn, phát-tâm làm sao cho tất-cả chúng sinh được viên-thành vô lượng công-đức. Ông A-nan đã biết đức Phật Thế-Tôn quở ông Tu-bồ-đề và ông Ðại-ca-diếp làm A-la-hán mà tâm không công-bằng. Ônh kính vâng lời dạy vô giá của Phật độ-thoát mọi điều chê-bai nghi-hoặc. Ông đến bên thành, thong-thả vào cửa, uy-nghi nghiêm-chỉnh, kính giữ phép hóa-trai.
Trong khi khất-thực, ông A-nan đi qua nhà người dâm-nữ Ma-đăng-già, bị phép huyển-thuật. Nàng ấy dùng tà-chú Tiên-phạm-thiên đạo Sa-tỳ-ca-la bắt vào phòng riêng, dựa-kề vuốt-ve làm cho ông A-nan gần phá giới-thể.
Ðức Như-lai biết ông A-nan mắc phải dâm-thuật, nên dùng trai rồi, liền trở về tịnh-xá. Vua cùng đại-thần, trưởng-giả cư-sĩ đều đi theo Phật, mong nghe những pháp chủ-yếu của đạo Phật.
Khi ấy trên đỉnh đức Thế-tôn, phóng hào-quang bách-bảo vô-úy; trong hào-quang hiện ra tòa sen báu nghìn cánh, có hóa-thân của Phật kết-già ngồi trên, tuyên-đọc thần-chú, khiến ngài Văn-thù đem chú nầy đến giúp-đỡ, tiêu-diệt tà-chú, đưa ông A-nan cùng nàng Ma-đăng-già đều về chỗ Phật ở.
Ông A-nan thấy Phật, đỉnh-lễ khóc-lóc, giận mình từ vô-thủy đến nay, một bề học rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo-lực, tha-thiết xin Phật dạy cho những phép xa-ma-tha, tam-ma, thiền-na, là những phương-tiện tu-hành đầu tiên để thành đạo Bồ-đề của thập phương Như-lai. Lúc ấy lại có hằng-sa Bồ-tát, Ðại-A-la-hán và Bích-chi-Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe Phật dạy, lui về chổ ngồi, yên-lặng lĩnh-thụ thánh-chỉ của Phật.

PHẦN THỨ HAI - PHẦN CHÍNH-TÔNG
CHƯƠNG I
CHỈ NGAY CHỖ VIÊN-NGỘ

MỤC I

GẠN-HỎI CÁI TÂM

ÐOẠN I

NÊU TRƯỚC NGUYÊN-DO CỦA THƯỜNG-TRỤ VÀ LƯU-CHUYỂN

Phật bảo ông A-nan: "Tôi với ông đồng phái, tình như anh em ruột; lúc ông mới phát-tâm thì ở trong Phật-pháp, thấy những tướng tốt gì mà bỏ được những ân-ái sâu-nặng thế-gian?"
Ông A-nan bạch Phật: "Tôi thấy 32 tướng của Như-lai tốt-đẹp lạ thường, hình-thể sáng-suốt như ngọc lưu-ly, thường tự suy-nghĩ: Tướng ấy không thể do dục-ái sinh ra, vì sao? giống dâm-dục nhơ-nhớp, tanh-hôi kết-cấu, máu mủ xen-lộn, làm sao sinh được thân vàng thắm chói trong-sạch sáng-suốt như vậy, nên tôi ước-mong, cắt tóc theo Phật tu-học".
Phật dạy: "Hay thay, A-nan, các ông nên biết hết thảy chúng-sinh từ vô-thủy đến nay sống chết nối luôn, đều do không biết thể-tính trong-sạch sáng-suốt của thường-trụ chân-tâm mà lại chỉ dùng các vọng-tưởng, vì vọng-tưởng đó không chân-thật nên mới có luân-hồi. Nay ông muốn học đạo vô-thượng Bồ-đề, phát-minh chân-tính thì nên lấy tâm ngay-thẳng mà đáp lại những câu hỏi của tôi. Thập phương Như-lai đều do một đường thoát-ly sinh-tử là dùng tâm ngay-thẳng. Tâm mà nói là ngay-thẳng thì cứ như vậy, từ địa-vị đầu đến địa-vị cuối cùng, chặng giữa, hẳn không có những tướng quanh-co.
A-nan, nay tôi hỏi ông : "Ðương khi ông do 32 tướng của Như-lai mà phát-tâm thì ông đem cái gì mà thấy và cái gì ưa-muốn?"
Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, ưa-muốn như vậy là dùng cái tâm và con mắt của tôi. Do mắt thấy tướng tốt Như-lai, tâm sinh ưa-muốn nên tôi phát-tâm muốn tu-hành thoát khỏi sống chết".
Phật bảo ông A-nan: "Như lời ông nói : Thật do tâm và con mắt mà có ưa muốn. Nếu không biết tâm và con mắt ở đâu thì không thể hàng-phục được trần-lao; ví như ông vua một nước bị giặc xâm-lấn, phát-binh đánh-dẹp, thì binh ấy cần biết giặc ở chỗ nào mới đánh-dẹp được. Hiện ông còn mắc phải luân-hồi là lỗi tại tâm và con mắt của ông". Nay tôi hỏi ông: "Tâm và con mắt ấy hiện ở chỗ nào?"

ÐOẠN II
CHẤP TÂM Ở TRONG THÂN

Ông A-nan bạch Phật : "Thưa Thế-Tôn tất-cả mười loài chúng-sinh trong thế-gian đều cho cái tâm hay biết là ở trong thân. Dầu tôi xem con mắt như hoa sen xanh của Như-lai cũng ở trên mặt Phật; tôi thấy con mắt vật-chất của tôi ở trên mặt tôi. Như vậy thì tâm hay biết thật ở trong thân".

Phật bảo ông A-nan : "Hiện nay ông ngồi trong giảng-đường Như-lai. Ông hãy xem rừng Kỳ-đà hiện ở chỗ nào?"

- Thưa Thế-tôn, giảng-đường cao lớn thanh-tịnh này ở trong vườn Cấp-cô-độc, còn rừng Kỳ-đà hiện thật ở ngoài giảng-đường.

- A-nan, nay ông ở trong giảng-đường thì ông thấy cái gì trước?

- Thưa Thế-tôn, tôi ở trong giảng-đường, trước thấy Như-lai, sau xem đại-chúng, rồi trông ra ngoài thấy vườn rừng.

- A-nan, do đâu ông thấy được vườn rừng?

- Thưa Thế-tôn, do các cửa giảng-đường mở rộng nên tôi ở trong thấy suốt được đến ra ngoài xa.

Khi ấy đức Thế-tôn, ở trong đại-chúng, đưa cánh tay kim-sắc xoa đầu ông A-nan, chỉ-bảo ông A-nan và đại-chúng rằng : "Có pháp Tam-ma-đề tên là Đại-phật-đỉnh-thủ-lăng-nghiêm-vương, gồm đủ muôn hạnh. Thập phương Như-lai đều do một pháp-môn ấy vượt lên đường diệu-trang-nghiêm. Ông nên chăm-chú lắng nghe". Ông A-nan đỉnh-lễ, kính vâng lời Phật dạy.

Phật bảo ông A-nan: "Như ông vừa nói: Ở trong giảng-đường, do cửa mở rộng nên ông trông xa thấy được rừng vườn; phỏng có chúng-sinh nào ở trong giảng-đường, không thấy Như-lai mà lại thấy được ngoài giảng-đường chăng?"

Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, ở trong giảng-đường không thấy Như-lai mà thấy được rừng suối ở ngoài, thật không có lẽ nào như vậy".

- A-nan, chính ông cũng vậy. Cái tâm của ông rõ-biết hết thảy. Nếu hiện nay cái tâm rõ-biết ấy thật ở trong thân thì trước hết nó phải rõ-biết trong thân-thể. Vậy có chúng-sinh nào, trước thấy bên trong thân, rồi sau mới thấy những vật ở ngoài không? Dầu không thấy được tim gan tì vị, nhưng móng tay mọc, tóc dài ra, gân chuyển, mạch nhảy, lẽ phải rõ-biết, sao lại không biết? Đã không biết bên trong, sao lại biết được bên ngoài? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay-biết hiện ở trong thân, thật không có lẽ nào như vậy.

ĐOẠN III

CHẤP TÂM Ở NGOÀI THÂN.

Ông A-nan cúi đầu bạch Phật: "Tôi nghe lời Phật dạy như vậy, mới rõ tâm tôi thật ở ngoài thân. Vì sao? Ví như đèn thắp trong phòng, trước hết phải chiếu trong phòng, rồi sau mới do nơi cửa chiếu sáng ngoài sân. Hết thảy chúng-sinh không thấy bên trong thân mà riêng thấy bên ngoài, cũng như ngọn đèn, để ở ngoài phòng, không thể chiếu sáng trong phòng. Nghĩa ấy rõ-ràng, có lẽ không lầm, chưa biết có đúng với nghĩa-lý rốt-ráo của Phật hay không?"

Phật bảo ông A-nan: "Vừa rồi, các tỷ-khưu theo tôi khất-thực trong thành Thất-la-phiệt, nay đã về rừng Kỳ-đà. Tôi đã thụ-trai rồi, ông hãy xem trong hàng tỷ-khưu, khi một người ăn thì các người khác có no không?"

Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, không; vì rằng các tỷ-khưu tuy là A-la-hán, nhưng thân-thể khác nhau, lẽ nào một người ăn lại làm cho cả chúng đều no được".

Phật bảo ông A-nan: "Nếu cái tâm hay-biết của ông thật ở ngoài thân thì thân và tâm riêng-cách, tất-nhiên không dính-líu gì với nhau; vậy cái gì tâm biết thì thân không thể hay, cái gì thân hay thì tâm không thể biết. Nay tôi giơ tay đâu-la-miên cho ông xem, trong khi mắt ông thấy thì tâm ông có biết là tay của tôi không?"

Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, đúng thế".

Phật bảo ông A-nan: "Nếu thân với tâm cùng hay-biết một lúc với nhau thì làm sao tâm lại ở ngoài thân? Vậy nên biết rằng ông nói tâm hay-biết hiện ở ngoài thân, thật không có lẽ nào như vậy".

ĐOẠN IV

CHẤP TÂM NÚP SAU CON MẮT

Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, như lời Phật dạy: vì không thấy bên trong, tâm không ở trong thân, vì thân tâm cùng biết, không thể rời nhau, tâm không ở ngoài thân, nay tôi suy-nghĩ, biết tâm ở một chỗ!"

Phật dạy: "Chỗ ấy ở đâu?"

Ông A-nan bạch Phật: "Cái tâm hay-biết đã không biết bên trong mà lại thấy bên ngoài, theo ý tôi nghĩ thì nó núp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu-ly úp vào hai con mắt, con mắt tuy có vật úp vào nhưng không làm ngăn-ngại, con mắt kia liền thấy thì liền phân-biệt được ngay. Song tâm hay-biết của tôi không thấy bên trong là vì tâm ở nơi con mắt; nhưng lại thấy bên ngoài rõ-ràng, không bị ngăn-ngại, là vì tâm núp sau con mắt".

Phật bảo ông A-nan: "Như ông vừa nói: Tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly; vậy người kia đương khi lấy chén lưu-ly úp vào hai mắt, trông-thấy núi sông thì có trông-thấy chén lưu-ly không?"

-Thưa Thế-tôn, đúng thế, người ấy đương khi lấy chén lưu-ly úp vào hai mắt, thật có thấy chén lưu-ly.

Phật bảo ông A-nan: "Nếu tâm ông núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly thì trong khi trông-thấy núi sông sao không trông-thấy con mắt? Nếu trông-thấy con mắt thì con mắt hình như ngoại-cảnh, không thể liền thấy mà liền biết được. Nếu không thấy được con mắt thì sao lại nói rằng tâm hay-biết núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay-biết núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly, thật không có lẽ nào như vậy".

ĐOẠN V

CHẤP NHẮM MẮT THẤY TỐI LÀ THẤY BÊN TRONG THÂN

Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, nay tôi lại nghĩ như vầy: Trong thân-thể chúng-sinh này, phủ-tạng ở trong, khiếu-huyệt ở ngoài, có tạng thì tối, có khiếu thì sáng. Nay tôi trả-lời Phật rằng: Mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy thế nào?"

Phật bảo ông A-nan: "Đương khi ông nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay không đối với mắt. Nếu đối với mắt thì cái tối trước mắt, sao lại ở trong thân? Nếu thành ở trong thân thì khi ở trong phòng tối, không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, cái gì ở trong phòng tối đó đều là tam-tiêu lục-phủ của ông hay sao? Còn như cái tối không đối với mắt, thì làm sao thành ra có thấy? Dầu tách-rời lối thấy bên ngoài mà cho rằng con mắt đối vào trong nên thấy tối, thì nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy bên trong thân; vậy mở mắt thấy sáng sao lại không thấy cái mặt. Nếu không thấy cái mặt thì cái nghĩa con mắt đối vào trong, không thành-lập được. Còn như thấy được cái mặt thì cái tâm hay-biết ấy và con mắt đều ở ngoài hư-không, sao lại thành ở trong thân được? Nếu tâm và con mắt ở ngoài hư-không thì tất-nhiên không phải là thể-chất của ông, vì không lẽ hiện nay Như-lai thấy mặt ông cũng là thân của ông hay sao? Và như thế thì con mắt đã biết, thân ông lẽ phải không biết. Nếu ông chấp rằng thân và con mắt đều có biết thì ông phải có hai tính-biết, rồi chính một thân ông sẽ thành hai đức Phật hay sao? Vậy nên biết rằng ông nói thấy tối là thấy bên trong thân, thật không có lẽ nào như vậy".

ĐOẠN VI

CHẤP TÂM HỢP VỚI CHỖ NÀO THÌ LIỀN CÓ Ở CHỔ ẤY

Ông A-nan bạch Phật: " Tôi thường nghe Phật chỉ-dạy tứ-chúng: Do tâm sinh nên các thứ pháp sinh, do pháp sinh nên các thứ tâm sinh. Nay tôi suy-nghĩ thì tức cái thể suy-nghĩ đó thật là tâm-tính của tôi, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó, chứ không phải ở trong, ở ngoài hay ở chặng giữa".

Phật bảo ông A-nan: "Nay ông nói rằng : Do pháp sinh nên các thứ tâm sinh, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó. Cái tâm ấy nếu không có tự-thể thì không thể hợp được; chứ còn nếu không có tự-thể mà vẫn hợp được thì giới thứ 19 cùng trần thứ 7 hợp lại được hay sao? Nghĩa ấy quyết không đúng. Còn nếu có tự-thể thì trong khi ông lấy tay tự gãi thân ông, cái tâm biết gãi của ông ở trong thân ra hay từ bên ngoài vào? Như ở trong thân ra thì lại phải thấy bên trong, còn như từ ngoài vào thì trước hết phải thấy cái mặt". 

Ông A-nan bạch Phật: " Thấy là con mắt, còn tâm thì biết chứ không phải thấy như con mắt; nói tâm thấy là không đúng nghĩa".

Phật dạy: " Nếu con mắt thấy được thì khi ông ở trong phòng, cái cửa có thấy được không? Lại những người chết rồi, vẫn còn con mắt, lẽ ra phải thấy được vật; mà nếu thấy được vật thì sao gọi là chết. A-nan, lại nếu cái tâm hay-biết của ông phải có tự-thể thì có một thể hay có nhiều thể? Nay tâm ở nơi thân ông, thể ấy cùng khắp cả mình hay không cùng khắp? Nếu tâm có một thể thì ông lấy tay gãi một chi, lẽ ra cả tứ chi đều biết; mà nếu đều biết thì lại không biết gãi ở chỗ nào. Nếu biết chỗ gãi thì cái thuyết một thể của ông tự-nhiên không thể thành-lập được. Nếu như có nhiều thể thì thành ra nhiều người, còn biết cái thể nào là thể của ông. Nếu cái thể ấy cùng khắp cả mình thì lại như trước kia, không biết được chỗ gãi. Nếu còn như không cùng khắp thì khi ông chạm trên đầu, đồng-thời cũng chạm dưới chân, hễ đầu có biết, lẽ ra chân phải không biết, nhưng hiện nay ông lại không phải như thế. Vậy nên biết rằng hễ hợp với chỗ nào, tâm liền có ở chỗ đó, thật không có lẽ nào như vậy".

ĐOẠN VII

CHẤP TÂM Ở CHẶNG GIỮA

Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trong khi Phật nói thật-tướng với các vị pháp-vương-tử như ngài Văn-thù, tôi có nghe đức Thế-tôn cũng dạy rằng: Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài. Theo ý tôi nghĩ: Tâm ở trong thân, sao lại không thấy bên trong; tâm ở ngoài thân thì thân và tâm không cùng biết. Vì tâm không biết bên trong nên không thể nói tâm ở trong thân, vì thân và tâm cùng biết nên nói tâm ở ngoài cũng không đúng lý. Nay thân và tâm cùng biết, lại tâm không thấy được bên trong thân thì tâm phải ở chặng giữa".

Phật bảo ông A-nan: "Ông nói "ở chặng giữa" thì cái giữa ấy chắc không lẫn-lộn và không phải không có chỗ. Nay ông nhận-định cái giữa ấy ở chỗ nào, ở nơi cảnh hay ở nơi thân? Nếu ở nơi thân mà ở một bên thì không phải là giữa; còn nếu ở giữa thân thì cũng như ở trong thân. Nếu cái giữa ở nơi cảnh thì có thể nêu ra được hay không thể nêu ra được? Không nêu ra được thì cũng như không có cái giữa, còn nêu ra được thì lại không nhất-định ở giữa. Vì sao? Ví như có người lấy một cây nêu, nêu một chỗ làm cái giữa, thì phương Đông trông qua, cái nêu lại ở phương Tây; phương Nam nhìn ra, cái nêu thành ở phương Bắc. Cái giữa nêu ra đã lẫn-lộn thì tâm phải rối-bời, không rõ ở đâu".

Ông A-nan bạch Phật: "Cái giữa của tôi nói, không phải hai thứ ấy. Như đức Thế-tôn thường dạy: Nhãn-căn và sắc-trần làm duyên, phát-sinh nhãn-thức. Nhãn-căn có phân-biệt, sắc-trần không hay-biết, nhãn-thức sinh ra ở giữa thì tâm ở chỗ đó".

Phật dạy: "Nếu tâm ông ở giữa căn và trần thì cái thể tâm ấy gồm cả hai bên hay không gồm cả hai bên? Nếu gồm cả hai bên thì ngoại-vật và tâm-thể xen-lộn, còn biết tâm là gì? Ngoại-vật không phải có biết như tâm-thể; bên có biết, bên không biết, trái hẳn lẫn nhau thì lấy cái gì làm cái ở giữa? Gồm cả hai bên cũng không được và nếu không phải có biết và cũng không phải không biết thì tức là không có thể-tính, lấy gì làm cái tướng ở giữa. Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm phải ở chặng giữa, thật không có lẽ nào như vậy".

ĐOẠN VIII

CHẤP TÂM KHÔNG DÍNH-DÁNG VÀO ĐÂU TẤT-CẢ

Ông A-nan bạch Phật: "Thưa Thế-tôn, trước đây tôi thấy Phật cùng chuyển pháp-luân với 4 vị đại-đệ-tử là Đại-mục-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lỵ-phất, Phật thường dạy: Cái tính của tâm hay-biết cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không dính-dáng vào đâu tất-cả thì gọi là tâm. Vậy tôi lấy cái không dính-dáng của tôi mà gọi là tâm, có được chăng?".

Phật bảo ông A-nan: "Ông nói tính của tâm hay-biết, không ở đâu cả. Vậy các vật-tượng thế-gian như hư-không và các loài thủy, lục, không, hành, gọi là tất-cả sự-vật mà ông không dính-dáng vào, là có hay là không có? Không, thì đồng như lông rùa, sừng thỏ, còn gì mà không dính-dáng? Đã có cái không dính-dáng thì không thể gọi là không. Không có tướng thì là không, không phải không thì có tướng; có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính-dáng được. Vậy nên biết rằng ông nói cái không dính-dáng vào đâu tất-cả gọi là tâm hay-biết, thật không có lẽ nào như vậy".

MỤC II

CHỈ RÕ TÍNH-THẤY

ĐOẠN I

CẦU ĐI ĐẾN CHO CHÂN-THẬT

Khi bấy giờ ông A-nan, ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay cung-kính mà bạch Phật rằng: "Tôi là em rất nhỏ của Như-lai, nhờ Phật thương-yêu, nay tuy được xuất-gia, còn ỷ-lại nơi lòng thương của Phật. Vì vậy nên tôi học rộng nghe nhiều mà chưa chứng-quả vô-lậu, không uốn-dẹp được chú Sa-tỳ-cà-la, bị nó bắt phải vào nhà dâm-nữ; nguyên-do là vì không biết đường tu-tập đi đến chỗ chân-thật. Cầu xin Thế-tôn đại từ thương-xót, chỉ-dạy cho chúng tôi đường tu Xa-ma-tha, cũng khiến cho những ngưòi không tin trừ-bỏ những tư-tưởng xấu".

Ông A-nan nói như vậy rồi, năm vóc gieo xuống đất, cùng với đại-chúng, hết lòng mong được nghe lời Phật dạy.

ĐOẠN II 

PHÓNG HÀO-QUANG NÊU RA TÍNH-THẤY VIÊN-MÃN SÁNG-SUỐT

Khi bấy giờ đức Thế-tôn, từ trước mặt, phóng ra các thứ hào-quang, hào-quang ấy chói sáng như trăm nghìn mặt trời, khắp các thế-giới chư Phật, sáu thứ rung-động, như thật các cõi nước mười phương, nhiều như vi-trần, hiện ra trong một lúc. Oai-thần của Phật khiến các thế-giới hợp lại thành một thế-giới. Trong thế-giới nầy, tất-cả các vị Bồ-tát hiện có, đều an-trụ nơi nước mình, chấp tay vâng nghe lời Phật dạy.

ĐOẠN III

CHỈ HAI THỨ CỖI-GỐC ĐỂ PHÂN-BIỆT MÊ VÀ NGỘ.

Phật bảo ông A-nan: “Tất-cả chúng-sinh từ vô-thủy đến nay điên-đảo nhiều cách, giống nghiệp tự-nhiên nhóm lại như chum quả ác-xoa. Những người tu-hành không thành được đạo vô-thượng Bồ-đề, đến nỗi lại thành Thanh-văn, Duyên-giác hoặc thành ngoại-đạo, chư Thiên, Ma-vương hay bà con Ma, đều do không biết hai chữ cỗi-gốc, tu-tập sai-lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều kiếp như vi-trần, rốt-cuộc vẫn không thể thành được. Thế nào là hai thứ cỗi-gốc? A-nan, một là cái cỗi-gốc sống chết vô-thủy, tức như ông ngày nay cùng các chúng-sinh dùng cái tâm phan-duyên mà làm tự-tính. Hai là cái thể bản-lai thanh-tịnh Bồ-đề Niết-bàn vô-thủy thì như hiện nay cái tính bản-minh thức-tính của ông, sinh ra các duyên ma lại bị bỏ rơi. Do các chúng-sinh bỏ rơi cái bản-minh ấy nên tuy cả ngày sống trong tính bản-minh mà không tự-giác, oan-uổng vào trong lục đạo.

ÐOẠN IV

NƯƠNG CÁI THẤY, GẠN-HỎI CÁI TÂM

A-nan, nay ông muốn biết đường tu Xa-ma-tha ra khỏi sống chết, tôi lại hỏi ông :

Liền đó đức Như-lai giơ cánh tay kim-sắc, co năm ngón tay, bảo ông A-nan : «Ông có thấy không?»

Ông A-nan bạch Phật : «Thấy».

Phật bảo: “Ông thấy cái gì?”

Ông A-nan bạch: “Tôi thấy Như-lai giơ cánh tay, co ngón tay thành nắm tay sáng-ngời, chói tâm và con mắt của tôi”.

Phật bảo: “Ông đem cái gì mà thấy?”.

Ông A-nan bạch: “Tôi cùng đại-chúng đều đem con mắt mà thấy”.

Phật bảo ông A-nan: “Ông trả-lời tôi rằng Như-lai co ngón tay làm thành nắm tay sáng-ngời, chói tâm và con mắt của ông; con mắt ông thì thấy được, còn ông lấy cái gì làm tâm để đối với cái nắm tay chói-sáng của tôi?”.

Ông A-nan bạch: “Như-lai hiện nay gạn-hỏi tâm ở chỗ nào, tôi thì dùng tâm suy-nghĩ tìm-xét: Tức cái biết suy-nghĩ ấy, tôi lấy nó làm tâm”.

ÐOẠN V

CHỈ CÁI BIẾT SUY-XÉT CÓ THỂ-TÍNH.

Phật bảo: “Sai rồi, A-nan, cái ấy không phải là tâm của ông”.

Ông A-nan giựt-mình, rời chỗ ngồi, chấp tay đứng dậy bạch Phật: “Cái ấy không phải là tâm tôi thì gọi là cái gì?”

Phật bảo ông A-nan: “Cái ấy là cái tưởng-tượng những tướng giả-dối tiền-trần, nó làm mê-lầm chân-tính của ông. Do từ vô-thủy cho đến đời này, ông nhận tên giặc ấy làm con, bỏ mất tính bản-lai thường-trụ nên phải chịu luân-hồi”.

Ông A-nan bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, tôi là em yêu của Phật, vì tâm yêu Phật nên tôi xuất-gia. Tâm tôi chẳng những cúng-dường đức Như-lai, mà còn trải qua hằng-sa quốc-độ, thừa-sự chư Phật và các vị thiện-tri-thức; phát-lòng đại-dũng-mãnh, làm tất-cả những pháp-sự khó làm, là đều dùng cái tâm ấy. Dầu cho hủy-báng Phật-pháp, rời-bỏ hẳn thiện-căn, cũng nhân cái tâm ấy. Nay Phật phát-minh cái ấy không phải là tâm thì tôi thành không có tâm, như cây như đất, vì ngoài cái hay-biết ấy ra, tôi lại không còn gì nữa. Sao đức Như-lai lại bảo cái ấy không phải là tâm? Tôi thật kinh-sợ và cả trong đại-chúng này không ai là không nghi-hoặc, xin Phật rủ lòng từ-bi, chỉ-dạy cho những chỗ chưa giác-ngộ”.

Khi bấy giờ đức Thế-tôn chỉ-dạy ông A-nan và cả đại-chúng, khiến cho tâm được vô-sinh-pháp-nhẫn, nơi sư-tử-tọa, xoa đầu ông A-nan và bảo ông rằng: “Như-lai thường nói: Các pháp phát-sinh là duy-tâm biến-hiện, tất-cả nhân-quả, thế-giới, vi-trần, đều nhân cái tâm thành có thể-tính. A-nan, như trong các thế-giới, hết thảy sự-vật hiện có, cả đến ngọn cỏ lá, cây, sợi dây, thắt nút, gạn-xét cỗi-gốc, đều có thể-tính, dầu cho hư-không cũng có tên, có tướng; huống chi cái tâm sáng-suốt thanh-tịnh nhiệm-mầu, làm cho hết thảy sự vật có thể-tính mà tự mình lại không có thể-tính.

Nếu ông quyết-chấp cái tính hay-biết suy-xét phân-biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời sự-nghiệp các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, riêng có toàn-tính; chứ như hiện nay ông vâng nghe pháp-âm của tôi, đó là nhân cái tiếng mà có phân-biệt: dầu cho diệt hết tất-cả cái thấy, nghe, hay, biết, bên trong nắm-giữ cái u-nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân-biệt bóng-dáng pháp-trần mà thôi.

Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng ông phải, chính nơi tâm ông, suy-xét chín-chắn, nếu rời tiền-trần có tính phân-biệt, thì đó mới thật là tâm của ông. Nếu tính phân-biệt, rời tiền-trần, không còn tự-thể thì nó chỉ là sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần. Tiền-trần không phải thường-trụ, khi thay đổi diệt mất rồi, thì cái tâm nương vào tiền-trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ và pháp-thân của ông cũng thành như đoạn-diệt, còn gì mà tu-chứng vô-sinh-pháp-nhẫn”.

ÐOẠN VI

CHỈ RÕ TÍNH-THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CON MẮT

Lúc ấy ông A-nan cùng cả đại-chúng lặng-im ngơ-ngác.

Phật bảo ông A-nan: “Trong thế-gian, tất-cả những người tu-học, hiện tuy đã tu đến chín bậc định, nhưng không diệt hết được mê-lầm, thành A-la-hán, đều do chấp cái vọng-tưởng sống chết, lầm nó là tính chân-thật, vậy nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều, không thành chính-quả”.

Ông A-nan nghe rồi, lại đau-xót khóc-lóc, năm vóc gieo xuống đất, quỳ dài chấp taybạch Phật rằng: “Từ khi tôi theo Phật phát-tâm xuất-gia, ỷ-thị oai-thần của Phật, thường tự mình suy-nghĩ, không cần phải tu, hầu như cho rằng đức Như-lai sẽ ban cho phép Tam-muội, không biết thân tâm vốn không thay-thế nhau được; bỏ mất bản-tâm của tôi; thân tuy xuất-gia nhưng tâm không đi vào chính-đạo, cũng như người con cùng-khổ, bỏ cha trốn-lánh. Ngày nay mới biết, tuy được nghe Phật-pháp nhiều, nếu không tu-hành thì chẳng khác gì người không nghe, cũng như người ta nói ăn mà không ăn, rốt-cuộc không thể no được.

Thưa Thế-tôn, chúng tôi hiện nay còn bị hai chướng ràng-buộc, do vì không biết tâm-tính yên-lặng thường-trụ, xin đức Như-lai thương-xót kẻ nghèo-khó rách-rưới, phát-khởi tâm nhiệm-mầu sáng-suốt, mở đạo-nhãn cho chúng tôi”.

Lúc ấy đức Như-lai từ chữ Vạn trước ngực, phóng ra hào-quang báu, hào-quang ấy rực-rỡ có trăm nghìn sắc, sáng khắp một lúc tất-cả thế-giới chư Phật mười phương số như vi-trần. Hào-quang soi khắp trên đỉnh các đức Như-lai Thập phương bảo-sát, xoay về soi đến ông A-nan và cả đại-chúng”, rồi Phật bảo ông A-nan rằng: “Nay tôi vì ông dựng pháp-tràng lớn, đồng-thời khiến cho tất-cả thập phương chúng-sinh được tâm-tính nhiệm-mầu sâu-kín, trong-sạch, sáng-suốt và đạo-nhãn thanh-tịnh.

A-nan, trước ông trả-lời rằng thấy nắm tay chói-sáng, cái chói-sáng nắm tay ấy do đâu mà có, làm sao thành ra nắm tay, ông đem cái gì mà thấy?”

Ông A-nan bạch: “Toàn thân Phật như vàng Diêm-phù-đàn, sáng-ngời như núi báu, do đức-tính thanh-tịnh sinh ra nên có hào-quang chói-sáng. Thật tôi lấy con mắt mà thấy năm ngón tay Phật co nắm lại, giơ cho người xem, nên có tướng nắm tay”.

Phật bảo ông A-nan: “Như-lai ngày nay xác-thật bảo ông. Những người có trí cần do ví-dụ mà được khai-ngộ. A-nan, ví như nắm tay tôi, nếu không có bàn tay tôi thì không thành nắm tay tôi, lại nếu không có con mắt ông, thì không thành cái thấy của ông. Lấy cái thấy của ông mà so-sánh với nắm tay của tôi, ý-nghĩa có cân nhau không?”

Ông A-nan bạch Phật: “Ðúng vậy, thưa Thế-tôn, đã không có con mắt của tôi thì không thành cái thấy của tôi, đem cái thấy của tôi so với nắm tay Như-lai, sự nghĩa giống nhau không khác”.

Phật bảo ông A-nan: “Ông nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Như người không có bàn tay thì tuyệt-nhiên không có nắm tay; chứ người không có con mắt kia, không phải hoàn-toàn không thấy. Là vì làm sao? Ông thử ra đường hỏi những người đui: Anh thấy cái gì? Thì những người đui kia chắc sẽ trả-lời: Hiện nay trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, không thấy gì khác. Lấy cái nghĩa ấy mà xét thì tiền-trần tự tối, chứ cái thấy nào có hao-kém gì”.

Ông A-nan bạch Phật: “Những người đui trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi là thấy được”.

Phật bảo ông A-nan: “Các người đui không có con mắt chỉ thấy tối đen, so với người có con mắt ở trong nhà tối thì hai cái tối đen ấy khác nhau hay không khác nhau?

- Thật vậy, thưa Thế-tôn, người ở trong nhà tối với những người đui kia, so-sánh hai cái tối đen thật không thể khác nhau.

- A-nan, nếu người không có con mắt, thấy trước hoàn-toàn tối đen, bỗng-nhiên được con mắt sáng, trở lại thấy các thứ sắc nơi tiền-trần mà gọi là con mắt thấy; thì người ở trong nhà tối kia, thấy trước hoàn-toàn tối đen, bỗng-nhiên được cái đèn sáng, cũng thấy các thứ sắc nơi tiền-trần, lẽ ra phải gọi là cái đèn thấy. Nếu như cái đèn thấy thì đèn đã thấy được, tự-nhiên không thể gọi là đèn; lại cái đèn nó thấy thì dính-líu gì đến ông. Vậy nên biết rằng đèn làm tỏ các sắc, nhưng thấy như vậy là mắt chứ không phải đèn; mắt làm tỏ các sắc, nhưng thấy như vậy là tâm chứ không phải mắt”.

Ông A-nan tuy được lời Phật dạy như vậy, cùng với đại-chúng, miệng tuy im-lặng, tâm chưa khai-ngộ, còn mong đức Như-lai từ-tâm chỉ-bày, chấp tay sạch lòng, đợi Phật dạy-bảo.

ÐOẠN VII

GẠN-HỎI Ý-NGHĨA HAI CHỮ “KHÁCH-TRẦN” ÐỂ CHỈ RA CÁI THẤY LÀ CHỦ, LÀ KHÔNG

Khi bấy giờ đức Thế-tôn ruỗi tay Ðâu-la-miên sáng-ngời, mở năm ngón tay, bảo ông A-nan và đại-chúng rằng: “Lúc tôi mới thành-đạo, ở trong Lộc-viên, có dạy bọn ông A-nhã-đa, năm vị tỷ-khưu và tứ-chúng rằng” Tất-cả chúng-sinh không thành đạo Bồ-đề và A-la-hán, là do những phiền-não khách-trần mê-hoặc. Thuở đó, bọn ông do đâu mà khai-ngộ, hiện nay thành được thánh-quả?”

Khi ấy ông Kiều-trần-na đứng dậy bạch Phật: “Tôi nay già-cả, ở trong đại-chúng, riêng được cái danh là “Hiểu”, do tôi ngộ được hai chữ khách-trần mà thành chính-quả. Bạch Thế-tôn, ví-như người khách đi đường, vào trọ quán-xá, hoặc ngủ hoặc ăn, ăn ngủ xong rồi, xếp đồ lên đường, không ở yên được; nếu thật là người chủ, tự-nhiên không phải đi đâu. Tôi nghĩ như vầy: Không ở yên thì gọi là khách, còn ở yên thì gọi là chủ. Tôi lấy cái “không ở yên” làm ý-nghĩa chữ khách. Lại như mới tạnh, mặt trời chiếu-sáng trên cao, ánh sáng vào trong lỗ hở, bày-tỏ hình-dáng bụi trần giữa hư-không. Trần thì lay-động, hư-không thì yên-lặng. Tôi nghĩ như vậy: Ðứng-lặng gọi là không, lay-động gọi là trần, tôi lấy cái “lay-động” làm ý-nghĩa chữ trần”.

Phật dạy: “Ðúng thế”.

Khi bấy giờ đức Như-lai ở trong đại-chúng co năm ngón tay, co rồi lại mở, mở rồi lại co, bảo ông A-nan rằng: “Nay ông thấy gì?”.

Ông A-nan đáp: “Tôi thấy bàn tay Bách-bảo-luân của Như-lai, ở trong chúng, lúc mở lúc nắm”.

Phật bảo ông A-nan: “Ông thấy tay tôi ở trong chúng khi mở khi nắm, đó là tay tôi có mở có nắm hay là cái thấy của ông có mở có nắm?”.

Ông A-nan bạch: “Bàn tay báu của Thế-tôn ở trong chúng khi mở khi nắm; tôi thấy bàn tay Như-lai tự mở tự nắm, chứ không phải tính-thấy của tôi có mở có nắm”.

Phật bảo: “Cái gì động, cái gì tĩnh?”.

Ông A-nan bạch: “Bàn tay Phật không ở yên, chứ tính-thấy của tôi còn không có tĩnh, lấy gì gọi là không ở yên nữa”.

Phật dạy: “Ðúng thế”,

Lúc ấy đức Như-lai từ trong bàn tay, phát một đạo hào-quang báu qua bên phải ông A-nan, ông A-nan liền quay đầu trông qua bên phải, Phật lại phát một đạo hào-quang qua bên trái ông A-nan, ông A-nan lại cũng quay đầu trông qua bên trái. Phật bảo ông A-nan: “Hôm nay đầu ông vì sao lại lay-động?”

Ông A-nan bạch: “Tôi thấy đức Như-lai phát hào-quang báu qua bên trái và qua bên phải của tôi nên tôi trông qua bên trái bên phải, đầu tự lay-động.

- A-nan, ông trông hào-quang của Phật mà lay-động cái đầu, quay qua bên phải bên trái, đó là cái đầu của ông động hay là cái thấy động?

- Thưa Thế-tôn, đầu tôi tự-động chứ tính-thấy của tôi còn không ở đâu, lấy gì mà lay-động”.

Phật dạy: “Ðúng thế”.

Lúc bấy giờ đức Như-lai bảo với vả đại-chúng rằng: “Như các chúng-sinh lấy cái lay-động mà gọi là trần, lấy cái không ở yên mà gọi là khách, thì các ông hãy xem ông A-nan, đầu tự lay-động mà cái thấy không lay-động, lại hãy xem bàn tay tôi tự mở tự nắm mà cái thấy không ruỗi không co. Làm sao các ông hiện nay lại lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh, tự đầu đến cuối, niệm-niệm sinh-diệt, bỏ mất chân-tính, làm việc trái-ngược; tâm-tính mất chỗ chân-thật, nhận vật làm mình, xoay-vần trong ấy, tự-nhận lấy cái trôi-lăn trong lục-đạo”.


Ý kiến bạn đọc
25 Tháng Mười Hai 201514:06
Khách
Nam mo lang ngjiem hoi thuong phat bo tat
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12071)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9957)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10179)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12356)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15351)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11249)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14335)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12113)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12092)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10622)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12561)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12273)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14526)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12622)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9085)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15321)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12224)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11490)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14277)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19710)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24616)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant