Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luật Học Tinh Yếu

02 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 17172)
Luật Học Tinh Yếu

Luật Học Tinh Yếu

HT. Thích Phước Sơn

luat-hoc-tinh-yeu


Xem bản pdf [Phần Nội Dung] [Phần Phụ Lục]

 

Chương 1: GIỚI BẢN CỦA TỲ-KHEO

I. KHÁI QUÁT VỀ GIỚI LUẬT

1. Dẫn nhập

2. Luật tạng được truyền dịch sang Hán văn

2.1. Các bộ quảng Luật

2.2. Năm bộ luận của Luật

3. Phân tích nội dung Luật bộ

3.1. Nội dung Luật Tứ Phần

3.2. Nội dung Luật tạng Pàli

II. LỊCH SỬ TRUYỀN THỪA LUẬT TỨ PHẦN

1. Việc xiển dương Luật Tứ Phần tại TQ

2. Việc xiển dương Luật học tại Việt Nam

Chương 2: CÁC PHÁP YẾT-MA

I. KHÁI QUÁT VỀ YẾT-MA.

1. Định nghĩa Yết-ma

2. Phân loại Yết-ma.

3. Những yếu tố cần thiết cho pháp Yết-ma.

4. Các giai đoạn tiến hành Yết-ma.

5. Các yếu tố để thành tựu Yết-ma.

6. Già Yết-ma.

7. Phi tướng của Yết-ma.

II. THIẾT LẬP CƯƠNG GIỚI

1. Các loại cương giới

1.1. Cương giới tự nhiên.

1.2. Cương giới pháp định.

2. Thể thức kết và giải các cương giới

2.1. Kết và giải giới trường

2.2. Kết và giải tịnh trù (tịnh địa)

2.3. Kết và giải đại giớigiới trường.

2.4. Kết và giải giới không mất y trong….

2.5. Kết và giải giớùi không lìa y thông…

2.6. Kết và giải tiểu giới…

III. TRUYỀN GIỚI, THỌ GIỚI

1. Bước đầu xuất gia

1.1. Thành phần đệ tử của Phật.

1.2. Tư cách làm thầy.

1.3. Yết-ma súc chúng.

1.4. Thế phát xuất gia, thọ giới Sa-di

1.5. Ngoại đạo xuất gia.

2. Tổng quát về giới Cụ túc.

2.1. Ý nghĩa của giới Cụ túc.

2.2. Vấn đề đắc giới:

2.3. Điều kiện của giới tử:

2.4. Tư cách của giới sư:

2.5. Các điều kiện cần thiết để Yết-ma….

3. Tiến hành tác pháp

3.1. Thỉnh giới sư

3.2. Yết-ma sai Giáo thọ.

3.3. Giáo giới giới tử.

3.4. Bạch Tăng dẫn giới tử vào.

3.5. Giới tử bạch Tăng xin giới.

3.6. Yết-ma hỏi các chướng pháp.

3.7. Hòa thượng khai đạo giới tử.

3.8. Bạch tứ Yết-ma truyền giới Cụ túc.

3.9. Truyền pháp tứ khí.

3.10. Truyền pháp tứ y

3.11. Giáo giới giới tử.

4. Ni xuất giathọ giới

4.1. Vấn đề Thức-xoa-ma-na.

4.2. Những dị biệt giữa Ni và Tăng….

IV. BỐ-TÁT TỤNG GIỚI

1. Duyên khởi về sự Bố-tát.

2. Vấn đề sám hối trước khi Bố-tát.

3. Triển hạn thuyết giới.

4. Những quy định liên quan đến Tỳ-kheo…

5. Thuyết giới cho Sa-di.

6. Người chưa thọ Cụ túc không được nghe…

7. Trường hợp Ni chúng cầu thầy Giáo thọ.

8. Vấn đề gởi dục và thuyết tịnh.

9. Trường hợp Tỳ-kheo mắc bệnh cuồng si

10. Linh động thuyết giới khi gặp nạn duyên.

V. AN CƯTỰ TỨ

1. An cư

1.1. Lý do An cư.

1.2. Thời gian An cư.

1.3. Tác pháp An cư.

1.4. Ra ngoài cương giới.

2. Tự tứ

2.1. Ý nghĩa Tự tứ

2.2. Tác pháp Tự tứ

VI. TẠP SỰ

1. Y Ca-thi-na

1.1. Nguyên nhân Phật chế Y Ca-thi-na.

1.2. Định nghĩa Y Ca-thi-na.

1.3. Lợi ích của Y Ca-thi-na

1.4. Thời gian hiệu lực của Y Ca-thi-na.

1.5. Người giữ y Ca-thi-na cần có 5 đức tính.

1.6. Những người không được hưởng….

1.7. Y Ca-thi-na mất hiệu lực trong…

1.8. Trường hợp không biết cách thọ y….

2. Phân vật

2.1. Phân loại Tăng vật.

2.2. Nguồn gốc của Tăng vật.

Chương 3: THỂ THỨC SÁM HỐITRỪNG PHẠT

I. PHẠM TỘISÁM HỐI

1. Khái quát về ngũ thiên thất tụ

2. Sám hối tội Ba-la-di

2.1. Trường hợp phạm tội mà che giấu.

2.2. Trường hợp phạm tộiphát lồ.

2.3. Trường hợp tái phạm.

3. Sám hối tội Tăng tàn

3.1. Định nghĩa khái quát ( )

3.2. Hành phú tàng hay hành biệt trú.

3.3. Hành Ma-na-đỏa.

3.4. Xuất tội hay giải tội

3.5. So sánh cách xử trị giữa Tăng và Ni

4. Sám hối tội Thâu-lan-giá

4.1. Định nghĩa và phân loại:

4.2. Thể thức sám hối.

5. Sám hối tội Xả đọa

5.1. Thể thức xả vật và sám hối

5.2. Thể thức trả lại vật

6. Sám hối tội Ba-dật-đề

6.1. Thể thức thẩm sát các tội tùng sinh

6.2. Thể thức thỉnh vị chủ sám tội…

6.3. Thể thức sám hối tội Tùng sanh…

6.4. Chính thức sám hối tội căn bản…

7. Sám hối tội Ba-la-đề Đề-xá-ni

7.1. Phân biệt tướng của tội.

7.2. Thể thức thỉnh vị chủ sám hối tội…

7.3. Thể thức sám hối chính

8. Sám hối tội Đột-cát-la

8.1. Thể thức thỉnh vị chủ sám hối

8.2. Phép sám hối tội do cố ý

8.3. Sám hối tội do vô ý

II. VI PHẠMTRỪNG PHẠT

1. Pháp Yết-ma khiển trách

2. Pháp Yết-ma tẫn xuất

3. Pháp Yết-ma y chỉ

4. Pháp Yết-ma cấm đến nhà cư sĩ

5. Pháp Yết-ma cử tội không nhận tội

6. Pháp Yết-ma cử tội, có tội mà không…

7. Pháp Yết-ma khuyên người bỏ ác kiến

8. Pháp Yết-ma can người phá Tăng

9. Pháp Yết-ma khiển trách đệ tử

10. Pháp khuyên và đuổi Sa-di tà kiến

11. Pháp Yết-ma can Tỳ-kheo-ni theo…

12. Pháp Yết-ma cảnh cáo Tỳ-kheo của Ni…

13. Pháp Yết-ma phú bát (tẩy chay)

14. Pháp Yết-ma công nhận học gia

Chương 4: GIỚI BỒ-TÁT

I. KINH ĐIỂN CĂN BẢN CỦA GIỚI BỒ-TÁT

1. Bồ-tát anh lạc bản nghiệp kinh

2. Phạm Võng kinh Bồ-tát giới bản

3. Du-già sư địa luận Bồ-tát giới bản

4. Bồ-tát địa trì kinh

5. Bồ-tát thiện giới kinh

6. Ưu-bà-tắc giới kinh

II. NỘI DUNG CÁC GIỚI BẢN

A. Giới bản Phạm Võng

B. Giới bản Du-già

C. Giới bản Ưu-bà-tắc

III. KHỞI NGUYÊN CỦA GIỚI PHÁP BỒ-TÁT

1. Giới Bồ-tát Phạm Võng của ngài Cưu-ma…

2. Địa Trì Giới Bổn của Tam tạng…

IV. ĐIỀU KIỆN TRUYỀN THỌ GIỚI BỒ-TÁT

1. Điều kiện của giới tử

1.1. Phải có cái thiện để cảm giới:

1.2. Không có cái ác làm chướng giới:

2. Điều kiện của pháp sư

V. THỂ THỨC THỌ GIỚI BỒ TÁT

1. Thể thức tự thệ thọ giới

1.1. Lễ kính Tam Bảo:

1.2. Thọ tứ y (Tứ bất hoại tín).

1.3. Sám hối 3 nghiệp

1.4. Phát bốn thệ nguyện lớn.

1.5. Tự thệ thọ năm trọng giới.

1.6. Tán thán giới đức.

1.7. Hồi hướng.

2. Thể thức thọ giới với Pháp sư.

VI. THỂ THỨC SÁM HỐI

1. Trường hợp xả giới hay mất giới

2. Thể thức bố-tát

VII. SO SÁNH GIỚI TỲ-KHEO VÀ GIỚI BỒ-TÁT

PHẦN PHỤ LỤC

Phụ lục 1: GIỚI BẢN CỦA ĐẠI TỲ-KHEO THUỘC…

Phụ lục 2: ĐỐI CHIẾU CÁC BỘ LUẬT…

Phụ lục 3: NGHI THỨC TRUYỀN GIỚI BỒ-TÁT…

TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI NÓI ĐẦU

Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp. Có thể nói, Giới pháp là kim chỉ nam, là những nguyên tắc sinh động để hướng dẫn đời sống của Tăng sĩ từ tục đến chân, từ phàm đến Thánh, từ cõi mê mờ đến chân trời giác ngộ. Tập sách này gồm những phần giáo trình về môn Luật học dùng để hướng dẫn Tăng Ni của lớp cử nhân Phật học thuộc Học Viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua. Giờ đây, cơ duyên đã hội đủ, chúng tôi sắp xếp lại, in chung thành một tập, lấy tên là Luật học tinh yếu, và được chia làm 4 chương:

Chương I, đề cập đến giới bản của Tỳ-kheo: khái quát về lịch sử truyền dịch và nội dung của các bộ Luật, chủ yếu là bộ Luật Tứ Phần.

Chương II, đề cập đến các pháp Yết-ma: những quy định về việc thiết lập các cương giới; việc truyền giới, thọ giới; việc tụng giới; cách thức An cư, Tự tứ v.v. Đó là những nguyên tắc rất chặt chẽ, dùng làm cương lĩnh cho mọi sinh hoạt thường nhật của Tăng chúng.

Chương III, đề cập đến việc phạm giớisám hối: trình bày về các trường hợp vi phạm giới pháp; cách thức sám hối những tội đã phạm; các trường hợp vi phạm đối với những quy định khác, và các biện pháp sửa trị cũng như chế tài.

Chương IV, đề cập đến giới pháp của Bồ-tát: trình bày sơ lược về lịch sử của giới Bồ-tát; những kinh điển dùng làm cơ sở, nội dung của các giới bản; thể thức truyền thọ giới Bồ-tát, cũng như việc tụng giới và sám hối.

Kinh Di giáo tường thuật rằng trước lúc xả huyễn thân, trở về cõi đại tịch diệt, vĩnh viễn chia tay với các đệ tử thân yêu, Đức Đạo sư đã để lại những lời giáo huấn tối hậu, cực kỳ thống thiết: “Này các thầy Tỳ-kheo, sau khi Ta diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết, tịnh giới là đức Thầy cao cả của các thầy. Nếu Ta ở đời thì cũng chẳng khác gì tịnh giới ấy.” Thế nên, khi chúng ta may mắn được tiếp xúc với Giới pháp thì cũng chẳng khác gì được diện kiến trực tiếp với bậc Thầy tôn kính của mình. Vì vậy có thể nói, bao giờ Giới luật còn được phổ biến rộng rãi, các đệ tử của Đấng Giác ngộ còn tinh tấn thực hành những di huấn cao quý của thầy mình, thì bấy giờ được xem là một bằng chứng hưng thịnh của Tăng bảoChánh pháp đang được xương minh tốt đẹp.

Thiền viện Vạn Hạnh ngày 15/ 11/ 2006 – PL. 2550.

Ý kiến bạn đọc
28 Tháng Năm 202110:20
Khách
tôi muôn học luật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23967)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19702)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24000)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21748)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23314)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27509)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26577)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29319)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33201)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20203)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25784)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20918)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31325)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38581)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21445)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44265)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29834)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42223)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22144)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45770)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32116)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23961)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33926)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27685)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32138)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21068)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28857)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21588)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28069)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21443)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19504)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19471)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19838)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19259)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29195)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33194)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31845)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21379)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39633)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21555)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19382)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26402)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24833)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21759)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22397)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29136)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22561)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23525)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35330)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31347)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant