Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luật Học Tinh Yếu

02 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 17173)
Luật Học Tinh Yếu

Luật Học Tinh Yếu

HT. Thích Phước Sơn

luat-hoc-tinh-yeu


Xem bản pdf [Phần Nội Dung] [Phần Phụ Lục]

 

Chương 1: GIỚI BẢN CỦA TỲ-KHEO

I. KHÁI QUÁT VỀ GIỚI LUẬT

1. Dẫn nhập

2. Luật tạng được truyền dịch sang Hán văn

2.1. Các bộ quảng Luật

2.2. Năm bộ luận của Luật

3. Phân tích nội dung Luật bộ

3.1. Nội dung Luật Tứ Phần

3.2. Nội dung Luật tạng Pàli

II. LỊCH SỬ TRUYỀN THỪA LUẬT TỨ PHẦN

1. Việc xiển dương Luật Tứ Phần tại TQ

2. Việc xiển dương Luật học tại Việt Nam

Chương 2: CÁC PHÁP YẾT-MA

I. KHÁI QUÁT VỀ YẾT-MA.

1. Định nghĩa Yết-ma

2. Phân loại Yết-ma.

3. Những yếu tố cần thiết cho pháp Yết-ma.

4. Các giai đoạn tiến hành Yết-ma.

5. Các yếu tố để thành tựu Yết-ma.

6. Già Yết-ma.

7. Phi tướng của Yết-ma.

II. THIẾT LẬP CƯƠNG GIỚI

1. Các loại cương giới

1.1. Cương giới tự nhiên.

1.2. Cương giới pháp định.

2. Thể thức kết và giải các cương giới

2.1. Kết và giải giới trường

2.2. Kết và giải tịnh trù (tịnh địa)

2.3. Kết và giải đại giớigiới trường.

2.4. Kết và giải giới không mất y trong….

2.5. Kết và giải giớùi không lìa y thông…

2.6. Kết và giải tiểu giới…

III. TRUYỀN GIỚI, THỌ GIỚI

1. Bước đầu xuất gia

1.1. Thành phần đệ tử của Phật.

1.2. Tư cách làm thầy.

1.3. Yết-ma súc chúng.

1.4. Thế phát xuất gia, thọ giới Sa-di

1.5. Ngoại đạo xuất gia.

2. Tổng quát về giới Cụ túc.

2.1. Ý nghĩa của giới Cụ túc.

2.2. Vấn đề đắc giới:

2.3. Điều kiện của giới tử:

2.4. Tư cách của giới sư:

2.5. Các điều kiện cần thiết để Yết-ma….

3. Tiến hành tác pháp

3.1. Thỉnh giới sư

3.2. Yết-ma sai Giáo thọ.

3.3. Giáo giới giới tử.

3.4. Bạch Tăng dẫn giới tử vào.

3.5. Giới tử bạch Tăng xin giới.

3.6. Yết-ma hỏi các chướng pháp.

3.7. Hòa thượng khai đạo giới tử.

3.8. Bạch tứ Yết-ma truyền giới Cụ túc.

3.9. Truyền pháp tứ khí.

3.10. Truyền pháp tứ y

3.11. Giáo giới giới tử.

4. Ni xuất giathọ giới

4.1. Vấn đề Thức-xoa-ma-na.

4.2. Những dị biệt giữa Ni và Tăng….

IV. BỐ-TÁT TỤNG GIỚI

1. Duyên khởi về sự Bố-tát.

2. Vấn đề sám hối trước khi Bố-tát.

3. Triển hạn thuyết giới.

4. Những quy định liên quan đến Tỳ-kheo…

5. Thuyết giới cho Sa-di.

6. Người chưa thọ Cụ túc không được nghe…

7. Trường hợp Ni chúng cầu thầy Giáo thọ.

8. Vấn đề gởi dục và thuyết tịnh.

9. Trường hợp Tỳ-kheo mắc bệnh cuồng si

10. Linh động thuyết giới khi gặp nạn duyên.

V. AN CƯTỰ TỨ

1. An cư

1.1. Lý do An cư.

1.2. Thời gian An cư.

1.3. Tác pháp An cư.

1.4. Ra ngoài cương giới.

2. Tự tứ

2.1. Ý nghĩa Tự tứ

2.2. Tác pháp Tự tứ

VI. TẠP SỰ

1. Y Ca-thi-na

1.1. Nguyên nhân Phật chế Y Ca-thi-na.

1.2. Định nghĩa Y Ca-thi-na.

1.3. Lợi ích của Y Ca-thi-na

1.4. Thời gian hiệu lực của Y Ca-thi-na.

1.5. Người giữ y Ca-thi-na cần có 5 đức tính.

1.6. Những người không được hưởng….

1.7. Y Ca-thi-na mất hiệu lực trong…

1.8. Trường hợp không biết cách thọ y….

2. Phân vật

2.1. Phân loại Tăng vật.

2.2. Nguồn gốc của Tăng vật.

Chương 3: THỂ THỨC SÁM HỐITRỪNG PHẠT

I. PHẠM TỘISÁM HỐI

1. Khái quát về ngũ thiên thất tụ

2. Sám hối tội Ba-la-di

2.1. Trường hợp phạm tội mà che giấu.

2.2. Trường hợp phạm tộiphát lồ.

2.3. Trường hợp tái phạm.

3. Sám hối tội Tăng tàn

3.1. Định nghĩa khái quát ( )

3.2. Hành phú tàng hay hành biệt trú.

3.3. Hành Ma-na-đỏa.

3.4. Xuất tội hay giải tội

3.5. So sánh cách xử trị giữa Tăng và Ni

4. Sám hối tội Thâu-lan-giá

4.1. Định nghĩa và phân loại:

4.2. Thể thức sám hối.

5. Sám hối tội Xả đọa

5.1. Thể thức xả vật và sám hối

5.2. Thể thức trả lại vật

6. Sám hối tội Ba-dật-đề

6.1. Thể thức thẩm sát các tội tùng sinh

6.2. Thể thức thỉnh vị chủ sám tội…

6.3. Thể thức sám hối tội Tùng sanh…

6.4. Chính thức sám hối tội căn bản…

7. Sám hối tội Ba-la-đề Đề-xá-ni

7.1. Phân biệt tướng của tội.

7.2. Thể thức thỉnh vị chủ sám hối tội…

7.3. Thể thức sám hối chính

8. Sám hối tội Đột-cát-la

8.1. Thể thức thỉnh vị chủ sám hối

8.2. Phép sám hối tội do cố ý

8.3. Sám hối tội do vô ý

II. VI PHẠMTRỪNG PHẠT

1. Pháp Yết-ma khiển trách

2. Pháp Yết-ma tẫn xuất

3. Pháp Yết-ma y chỉ

4. Pháp Yết-ma cấm đến nhà cư sĩ

5. Pháp Yết-ma cử tội không nhận tội

6. Pháp Yết-ma cử tội, có tội mà không…

7. Pháp Yết-ma khuyên người bỏ ác kiến

8. Pháp Yết-ma can người phá Tăng

9. Pháp Yết-ma khiển trách đệ tử

10. Pháp khuyên và đuổi Sa-di tà kiến

11. Pháp Yết-ma can Tỳ-kheo-ni theo…

12. Pháp Yết-ma cảnh cáo Tỳ-kheo của Ni…

13. Pháp Yết-ma phú bát (tẩy chay)

14. Pháp Yết-ma công nhận học gia

Chương 4: GIỚI BỒ-TÁT

I. KINH ĐIỂN CĂN BẢN CỦA GIỚI BỒ-TÁT

1. Bồ-tát anh lạc bản nghiệp kinh

2. Phạm Võng kinh Bồ-tát giới bản

3. Du-già sư địa luận Bồ-tát giới bản

4. Bồ-tát địa trì kinh

5. Bồ-tát thiện giới kinh

6. Ưu-bà-tắc giới kinh

II. NỘI DUNG CÁC GIỚI BẢN

A. Giới bản Phạm Võng

B. Giới bản Du-già

C. Giới bản Ưu-bà-tắc

III. KHỞI NGUYÊN CỦA GIỚI PHÁP BỒ-TÁT

1. Giới Bồ-tát Phạm Võng của ngài Cưu-ma…

2. Địa Trì Giới Bổn của Tam tạng…

IV. ĐIỀU KIỆN TRUYỀN THỌ GIỚI BỒ-TÁT

1. Điều kiện của giới tử

1.1. Phải có cái thiện để cảm giới:

1.2. Không có cái ác làm chướng giới:

2. Điều kiện của pháp sư

V. THỂ THỨC THỌ GIỚI BỒ TÁT

1. Thể thức tự thệ thọ giới

1.1. Lễ kính Tam Bảo:

1.2. Thọ tứ y (Tứ bất hoại tín).

1.3. Sám hối 3 nghiệp

1.4. Phát bốn thệ nguyện lớn.

1.5. Tự thệ thọ năm trọng giới.

1.6. Tán thán giới đức.

1.7. Hồi hướng.

2. Thể thức thọ giới với Pháp sư.

VI. THỂ THỨC SÁM HỐI

1. Trường hợp xả giới hay mất giới

2. Thể thức bố-tát

VII. SO SÁNH GIỚI TỲ-KHEO VÀ GIỚI BỒ-TÁT

PHẦN PHỤ LỤC

Phụ lục 1: GIỚI BẢN CỦA ĐẠI TỲ-KHEO THUỘC…

Phụ lục 2: ĐỐI CHIẾU CÁC BỘ LUẬT…

Phụ lục 3: NGHI THỨC TRUYỀN GIỚI BỒ-TÁT…

TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI NÓI ĐẦU

Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp. Có thể nói, Giới pháp là kim chỉ nam, là những nguyên tắc sinh động để hướng dẫn đời sống của Tăng sĩ từ tục đến chân, từ phàm đến Thánh, từ cõi mê mờ đến chân trời giác ngộ. Tập sách này gồm những phần giáo trình về môn Luật học dùng để hướng dẫn Tăng Ni của lớp cử nhân Phật học thuộc Học Viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua. Giờ đây, cơ duyên đã hội đủ, chúng tôi sắp xếp lại, in chung thành một tập, lấy tên là Luật học tinh yếu, và được chia làm 4 chương:

Chương I, đề cập đến giới bản của Tỳ-kheo: khái quát về lịch sử truyền dịch và nội dung của các bộ Luật, chủ yếu là bộ Luật Tứ Phần.

Chương II, đề cập đến các pháp Yết-ma: những quy định về việc thiết lập các cương giới; việc truyền giới, thọ giới; việc tụng giới; cách thức An cư, Tự tứ v.v. Đó là những nguyên tắc rất chặt chẽ, dùng làm cương lĩnh cho mọi sinh hoạt thường nhật của Tăng chúng.

Chương III, đề cập đến việc phạm giớisám hối: trình bày về các trường hợp vi phạm giới pháp; cách thức sám hối những tội đã phạm; các trường hợp vi phạm đối với những quy định khác, và các biện pháp sửa trị cũng như chế tài.

Chương IV, đề cập đến giới pháp của Bồ-tát: trình bày sơ lược về lịch sử của giới Bồ-tát; những kinh điển dùng làm cơ sở, nội dung của các giới bản; thể thức truyền thọ giới Bồ-tát, cũng như việc tụng giới và sám hối.

Kinh Di giáo tường thuật rằng trước lúc xả huyễn thân, trở về cõi đại tịch diệt, vĩnh viễn chia tay với các đệ tử thân yêu, Đức Đạo sư đã để lại những lời giáo huấn tối hậu, cực kỳ thống thiết: “Này các thầy Tỳ-kheo, sau khi Ta diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết, tịnh giới là đức Thầy cao cả của các thầy. Nếu Ta ở đời thì cũng chẳng khác gì tịnh giới ấy.” Thế nên, khi chúng ta may mắn được tiếp xúc với Giới pháp thì cũng chẳng khác gì được diện kiến trực tiếp với bậc Thầy tôn kính của mình. Vì vậy có thể nói, bao giờ Giới luật còn được phổ biến rộng rãi, các đệ tử của Đấng Giác ngộ còn tinh tấn thực hành những di huấn cao quý của thầy mình, thì bấy giờ được xem là một bằng chứng hưng thịnh của Tăng bảoChánh pháp đang được xương minh tốt đẹp.

Thiền viện Vạn Hạnh ngày 15/ 11/ 2006 – PL. 2550.

Ý kiến bạn đọc
28 Tháng Năm 202110:20
Khách
tôi muôn học luật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23612)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18991)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24770)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30978)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23993)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26525)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21325)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38139)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18805)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19984)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23891)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22818)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22925)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18713)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15849)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18864)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19686)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19957)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18128)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22947)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34171)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16921)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39263)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26082)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29149)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22905)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30968)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21013)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23333)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19823)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24686)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20228)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23904)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19863)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant