Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Bảy: Các thiện căn phát sinh

17 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10811)
Phần Bảy: Các thiện căn phát sinh



PHẦN BẢY
CÁC THIỆN CĂN PHÁT SINH

Hành giả khi thực hành Chỉ Quán như vậy, do quán "tùng giả nhập không, thì trong lúc tọa thiền, thân tâm sáng suốt thanh tịnh, lúc đó sẽ có các thứ thiện căn phát sinh, cần nên nhận biết.

Những thứ thiện căn phát sinh có hai thứ:

1)Những thiện căn ở ngoài như: bố thí, trì giới, hiếu thuận, cúng dường Tam Bảohọc hỏi Phật Pháp... nếu không chân chánh tu hành theo Phật pháp thì có thể lẫn lộn với Ma cảnh.

2)Những tướng thiện căn phát sanh tự bên trong, nghĩa những thiện căn do áp dụng các pháp môn thiền định.

Phân biệt các tướng nầy chia làm ba phần:

a/ Chỉ rõ các tướng thiện căn phát sinh:

Có năm thứ khác nhau:

1- Tướng thiện căn phát sanh trong lúc thực hành điều hòa hơi thở, hành giả do khéo thực hành Chỉ Quán nên thân tâm điều hòa, vọng niệm dừng nghỉ, nhân đó tự thấy tâm lân lân vào định, phát sinh những định dục giới và định vị đáo địa... định tâm yên ổn, thân tâm rỗng không vắng lặng, không thấy có tướng mạo. Về sau, hoặc trải qua một vài lần tọa thiền, cho đến một ngày hai ngày, một tháng hai tháng, giữ vững định tâm, không lùi không mất, thì ở trong định bỗng thấy thân tâm phát ra tám thứ cảm xúc, nghĩa là thấy thân có các tướng: đau, ngứa, lạnh, nóng, nhẹ nhàng, nặng nề, rít, trơn...Trong lúc tám cảm xúc phát ra, thân tâm vẫn yên ổn trong định, nhẹ nhàng, vui khoẻ, khoan khoái, thanh tịnh, không thể lấy gì ví dụ được. Được như thế thì biết đó là tướng thiện căn thiền định căn bản đương phát ra trong lúc điều hòa hơi thở. Hành giả hoặc khi trong định dục giới và định vị đáo ?i?a, bỗng nhiên nhận rõ hơi thở ra vào dài, ngắn, các lỗ chân lông khắp thân thể đều rỗng thưa và dùng được tâm nhãn thấy cả ba mươi sáu vật trong thân, cũng như mở kho thấy các thứ thóc, đậu.tâm rất vui mừng, vắng lặng yên ổn. Đó là tướng thiện căn đặc thắng phát sinh trong lúc điều hòa

hơi thở.

2- Tướng thiện căn phát sinh do phép quán bất tịnh. Người tu hành, nếu trong lúc ở trong định dục giớivị đáo địa, thân tâm rỗng không vắng lặng, bỗng thấy thân người khác chết, phình lên hư nát, tan ra nước, chảy đi, còn lại một đống xương trắng, và tâm vừa thương vừa mừng, nhàm chán những điều ưa thích trước kia, đó là tướng thiện căn chính tưởng phát ra. Hoặc trong lúc nhâ?p định, bỗng thấy những vật bất tịnh trong thân, cả mình phình trướng tan nát, chỉ còn xương trắng từ đầu đến chân. Thấy như thế rồi, định tâm an lành, giác ngộ vô thường, nhàm chán ngũ dục, không chấp ngã nhân, đó là tướng thiện căn bội xã phát ra. Hoặc ở trong định, thấy cả trong thân, ngoài thân, tất cả loài cầm thú, cho đến áo mặc, đồ ăn, nhà cửa, núi rừng.. đều bất tịnh, đó là tướng thiện căn đại bất tịnh phát ra.

3- Tướng thiện ăn do tự tâm phát sinh, Hành giả nhân thực hành Chỉ Quán, được các định dục giới, hoặc định vị đáo địa, bỗng nhiên phát tâm nghĩ thương chúng sanh, hoặc duyên với việc người thân được vui phát sanh định tâm, trong tâm vui vẽ, thanh tịnh, không thể lấy gì ví dụ được, hoặc duyên với việc người trung gian, kẻ thù, cho đến thập phương chúng sanh thuộc các loài khác, thấy họ được vui vẻ mà phát định tâm. Đến lúc xuất định, tâm thường vui vẻ, thấy bất cứ người nào, nhan sắc thường hòa nhã. Đó là tướng thiện căn do từ tâm phát ra. Về bi, hỉ và xả cũng có những tướng thiện căn phát sinh như từ tâm vậy.

4- Tướng thiện căn do quán nhân duyên phát sanh. Hành giả nhân lúc thực hành Chỉ Quán, khi được các định dục giới và định vị đáo địa, bỗng được giác ngộ, xét tìm các nhân duyên vô minh, hành...trong ba đời không thấy có nhân, có ngã, phá được các kiến chấp, trí tuệ mở bày, tâm sinh pháp hỷ, không còn nghĩ những việc thế gian, hoặc xét trong năm ấm, mười hai xứ, mười tám giới, không thấy nhân ngã. Đó là tướng thiện căn do quán nhân duyên phát sanh.

5- Tướng thiện căn do niệm Phật phát sanh. Hành giả khi đắc định, trong tâm vắng lặng, bỗng nhớ nghĩ đến công đức tướng hảo của chư Phật, không thể nghĩ bàn. Cho đến những tướng thập lực, vô úy, bất cộng, tam muội, giải thoát thần thông biến hóa, phổ độ chúng sanh, và vô lượng vô biên công đức của chư Phật đều không thể nghĩ bàn. Phát khởi ý niệm như thế, thì sanh tâm kính yêu, thân tâm vui vẻ, thanh tịnh yên ổn, không có các ác tướng. Khi xuất định rồi, thân thể nhẹ nhàng, công đức tự giác rất lớn. Đó là thiện căn do niệm Phật phát sanh.

Lại nữa, hành giả nhân lúc tu Chỉ Quán, thân tâm vắng lặng trong sạch, hoặc phát ra những tướng vô thường, khổ, không, vô ngã, những tướng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả, niệm thiện, cho đến những tướng không, vô tướng, vô tác và được các Bồ-?ề đạo phẩm, các Ba-la-mật, các thần thông biến hóa.. Đó đều là những tướng thiện căn do các pháp môn phát sanh. Vì thế trong kinh có dạy: "Kiềm chế tâm lại một nơi thì không việc gì không làm xong."

b/Phân biệt chân, ngụy:

Đoạn nầy chia làm hai phần:

1- Nhận rõ những tướng phát sanh do thiền định tà ngụy. Hành giả khi phát ra những thiền định như trên, hoặc nhân những pháp phát ra trong thiền định, mà thân tâm lay động, hoặc thân nặng như có vật đè lên, hoặc thân nhẹ như muốn bay lên trên không, hoặc thân hình như xoay tròn, hoặc thân mệt mỏi khó chịu, hoặc nghe lạnh buốt, hoặc nghe nóng bừng, hoặc thấy những cảnh giới ky? lạ, hoặc tâm mờ tối, hoặc khởi các ác niệm, hoặc tâm bị tán loạn, nghĩ các việc phức tạp, hoặc vui mừng nhảy nhót, lo rầu đau thương, hoặc có những cảm xúc làm cho mình ghê rợn, hoặc vui quá say mê. Khi phát sanh những tà pháp như thế, thì đó là những tướng thiền định tà ngụy. Nếu người ưa đắm những tà ngụy đó thì phần nhiều bỏ mất sơ tâm, hóa ra điên cuồng, lạc vào các thứ ngoại đạo, có khi các quỷ thần . biết hành giả chấp trước tà pháp, lại giúp thêm sức, phát huy các tà định, làm cho hành gia có biện tài, thần thông, lừa gạt thế gian, làm cho nhiều người tín phục, mà trong tâm thì vẫn điên đảo, chuyên làm những việc quỷ thần, mê hoặc người đời. Người tu hành như thế, quyết không gặp được Phật và phải đọa trong ác đạo quỷ thần. Nếu lại làm nhiều việc ác thì phải đoạ địa ngục.

Vì thế ha?nh giả thực hành Chỉ Quán, nếu nhận được ác tướng thiền định tà ngụy, liền khước từ ngay. Khước từ bằng cách nào? Nếu biết là giả dối thì dùng chánh tâm không nhận, không trước, các tướng đó sẽ tiêu diệt, hoặc dùng chánh quán mà phá trừ, các tướng ấy sẽ diệt vong.

2 - Nhận rõ các tướng của thiền định chân chánh. Hành giả nếu trong lúc tọa thiền không có những tướng tà ngụy như trên, khi mỗi tiếng thiền định phát ra, liền biết nó kết hợp với định tâm, trong tâm rỗng sáng thanh tịnh, vui đẹp yên lặng, không có các điều che lấp, thiện căn phát sanh thì lòng tin kính càng tăng trưởng, trí tuệ rõ ràng, thân tâm như hòa, rỗng không vắng lặng, thoát ly thế gian, vô vi, vô dục, xuất định nhập định tự tại, tự do. Đó là tướng thiền định chân chính phát ra. Ví như thân cận người ác thì thường bị va chạm chọc tức. Ngược lại, thân cận người lành thì càng lâu, quan hệ càng tốt đẹp. Hành giả cần phân biệt tà chánh rõ ràng để khỏi bị lầm lạc.

c/Dùng chỉ quán để tăng trưởng các thiện căn:

Nếu trong lúc toạ thiền, các thiện căn phát ra, thì nên dùng hai pháp Chỉ Quán tu tập khiến cho tăng trưởng. Lúc nào nên dùng phép Chỉ, thì dùng phép Chỉ, lúc nào nên dùng phép Quán, thì dùng phép Quán, tùy nghitu hành như trước đã nói.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12586)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14169)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10920)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10594)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11271)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12071)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13225)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13707)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33732)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11399)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12993)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13133)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11694)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17957)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11496)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11930)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11589)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19046)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12635)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11424)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13222)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15846)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11913)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11777)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12879)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12725)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14022)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13040)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 13010)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13367)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12835)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12765)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11807)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11795)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12406)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12455)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19910)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12049)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12075)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16952)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12741)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15155)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16210)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12958)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12312)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11976)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11979)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13226)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16574)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13298)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12577)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11909)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19928)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11234)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11328)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10464)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11157)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11027)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10079)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11805)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant