Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tát Bát Đa Tô Lý Du Nại Đã

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12204)
Kinh Tát Bát Đa Tô Lý Du Nại Đã


PHẬT NÓI KINH TÁT BÁT ÐA TÔ LÝ DU NẠI DÃ


Đại Chánh Tân Tu số 0030 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống, Tây Thiên dịch kinh Tam tạng Triều Tán Ðại phu Thí Quang Lộc Khanh, Minh giáo đại sư Pháp Hiền phụng chiếu.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại tinh xá Lâu Các, giếng Viên Hầu, nước Tỳ Xá Ly. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Bí sô:

–Các ngươi nay hãy lắng nghe cho kỹ: “Các hành là vô thường, là pháp sanh diệt, nó không chắc, không thật, không có rốt ráo, không thể gánh vác, không thể ưa thích”. Các ngươi nên biết, phải siêng năng tinh tấn để cầu giải thoát. Này Bí sô, thời gian không thể dừng lâu, nó thay đổi trong từng niệm.

Từ nay về sau, lúc kiếp sắp hết, trời không có mưa, nhân gian bị hạn hán; toàn cả đại địa, tất cả cây cối, rừng rú, trăm thứ lúa mạ, tất cả hoa quả đều bị khô rang, đều không thành tựu.

Này Bí sô, hãy nên biết rằng: “Các hành là vô thường, là pháp sanh diệt, nó không chắc, không thật, không rốt ráo, không thể gánh vác, không thể ưa thích”. Các ngươi hãy nên gia sức tinh tấn để cầu giải thoát.

Này Bí sô, lúc kiếp sắp hoại có hai mặt trời xuất hiện thiêu đốt thế gian, sức nóng càng ngày càng tăng, toàn cõi đại địa các thứ cây cối, rừng rú, rễ, cành, nhánh, lá tất cả đều bị hủy hoại chẳng còn gì cả. Này Bí sô, sự vô thường như vậy, không thể bảo tồn lâu dài được. Nay đây các ngươi phải nên ra sức tinh tấn để cầu giải thoát.

Lại nữa, này Bí sô lúc kiếp sắp hoại có ba mặt trời xuất hiện thiêu đốt thế gian, sức nóng dữ dội hơn trước, toàn cõi đại địa, các sông ngòi nhỏ, tất cả khe suối đều bị khô cạn không còn chút nước. Bí sô nên biết, sự vô thường là như vậy, ai mà thoát được? Cho nên nay ta ân cần khuyên bảo, các ngươi hãy mau cầu giải thoát.

Này Bí sô lúc kiếp sắp hoại có bốn mặt trời xuất hiện thiêu đốt thế gian, sức nóng dữ dội hơn trước, toàn cõi đại địa không có ao nước nào không bị nung nóng. Bốn dòng sông lớn: sông Hằng, sông Tín Ðộ, sông Tế Ða, sông Pha Sô, tất cả đều bị khô cạn, không còn chút nước. Các Bí sô nên biết, vô thường như vậy, ai mà thoát khỏi? Các ngươi hãy tự tư duy, không còn tâm giải đãi ngạo mạn nữa, để sớm cầu giải thoát.

Này Bí sô lúc kiếp sắp hoại có năm mặt trời xuất hiện thiêu đốt thế gian, sức nóng dữ dội hơn trước. Nước của biển lớn trong đại địa dần dần rút xuống một trăm do tuần, hai trăm do tuần, ba trăm do tuần, cho đến một ngàn do tuần. Lúc mặt trời đã thiêu đốt dữ dội, cả bầu trời gieo rắc sự tàn hại. Lại nữa, nước biển giảm xuống cho đến hai ngàn do tuần, ba ngàn do tuần, cho đến bảy ngàn do tuần, đã giảm như vậy rồi, các nguồn nước khác ở trong biển cũng chỉ còn bảy ngàn do tuần.

Này Bí sô, như vậy nước biển từ bảy ngàn do tuần dần dần lại giảm xuống cho đến sáu ngàn do tuần, năm ngàn do tuần, bốn ngàn do tuần, cho đến còn có bảy trăm do tuần.

Này Bí sô, như vậy nước biển từ bảy trăm do tuần dần dần lại giảm xuống cho đến sáu trăm do tuần, năm trăm do tuần, bốn trăm do tuần, cho đến còn có bảy do tuần.

Này Bí sô, như vậy nước biển từ bảy do tuần dần dần lại giảm xuống cho đến sáu do tuần, năm do tuần, bốn do tuần, cho đến còn có bảy do tuần.

Này các Bí sô, như vậy nước biển từ bảy do tuần dần dần lại giảm xuống cho đến sáu do tuần, năm do tuần, bốn do tuần, cho đến còn có bảy câu lô xá.

Này các Bí sô, như vậy nước biển từ bảy câu lô xá dần dần lại giảm xuống cho đến sáu câu lô xá, năm câu lô xá, bốn câu lô xá, cho đến còn có bảy cây đa la.

Này các Bí sô, như vậy nước biển từ bảy cây đa la dần dần lại giảm xuống cho đến sáu cây đa la, năm cây đa la, bốn cây đa la, cho đến bằng bảy người đứng.

Này các Bí sô, như vậy nước biển từ bảy người đứng dần dần lại giảm xuống sáu người đứng, năm người đứng, bốn người đứng, cho đến còn một người đứng, rồi đến cổ người, đến hông người, đến rốn người, đến eo người, đến đầu gối, đến mắt cá người, cho đến còn một ngón chân tức thì đại địa khô cháy. Bấy giờ thế gian chỉ có đại địa, núi sông, ngoài ra thì chẳng còn gì nữa cả.

Ðức Phật dạy:

–Này Bí sô, các hành là vô thường, sanh diệt, không đứng yên, không thật, không bền chắc. Các ngươi đối với chúng nên sớm cầu giải thoát.

Này Bí sô lúc kiếp sắp hoại có sáu mặt trời xuất hiện, cả đại địa đốt cháy, núi đá tiêu chảy, núi chúa Tu Di bốc khói như nung gạch ngói có khói đen bốc lên cũng lại như vậy. Bấy giờ thế gian không thể nào quán sát được. Này Bí sô, vô thường sanh diệt, không trụ như vậy. Các ngươi nên gia tâm tinh tấn, bỏ tâm tham ái, mau cầu giải thoát.

Này Bí sô lúc kiếp sắp hoại có bảy mặt trời xuất hiện, sức nóng dữ dội, bỗng nhiên lửa cháy bừng bừng như đốt mười đống củi, trăm, ngàn, vạn đống củi, cho đến tiểu thiên thế giớichư thiên Lục dục đều thành một đám lửa, thiêu đốt dục giới rồi đến cõi Sơ thiền của Phạm Thế, ngọn lửa cũng tự bốc cháy thiêu đốt cung điện cao một trăm do tuần, hoặc hai trăm do tuần, ba trăm do tuần, cho đến bảy ngàn do tuần của khí thế giới. Cung điện như vậy đều thành một đám lửa, cho đến Nhị thiền. Các Phạm chúng mới sanh lên thấy ngọn lửa bừng bừng ở phía dưới, trong lòng hết sức kinh sợ hãi hùng, tìm cách tránh hỏa nạn. Khi ấy những vị trời sanh trước ở Nhị thiền bảo rằng:

-Các ngươi đã được thiện duyên đời trước mà sanh đến cung điện của ta, hãy tự an tâm, chớ sanh lòng khiếp sợ. Lửa của địa cầu dưới đây không bao lâu nữa sẽ tự tắt.

Nói như vậy xong, bỗng nổi gió lớn thổi tắt khói lửa, không còn tro than gì cả. Thí như có người ở trong hư không lấy dầu bơ đốt thành một ngọn đuốc, đuốc cháy hết rồi không còn khói đen và tro gì cả. Sau khi ngọn lửa diệt rồi cũng lại như vậy.

Ðức Phật dạy:

–Này Bí sô, pháp của hữu vi thì sanh diệt, không trụ, là pháp điên đảo, không bền, không thật, không rốt ráo, không thể an vui. Hãy xa lìa tham ái, sớm cầu giải thoát. Nếu không tham ái thì nhân duyên gì mà đại địa chư thiên bị phá hoại không tồn tại?

Lại nữa, này Bí sô, như kiếp quá khứđức Phật ra đời hiệu là Diệu Nhãn Như Lai, có vô lượng vô biên chúng Thanh Văn và các Phạm thiên, chúng ngoại đạo ly dụcthần thông. Ðức Diệu Nhãn Như Lai vì các Thanh Văn nói pháp thanh tịnh phạm hạnh, ý nghĩa rốt ráo sâu xa. Bấy giờ các Bí sô... được tất cả giới pháp tròn đầy, tùy ý tu hành, hoặc thực hành pháp quán Tứ vô lượng, đoạn trừ dục nhiễm ô uế, sanh lên trời Phạm thiên. Hoặc có người thích sanh lên trời Tha Hóa Tự Tại, hoặc thích sanh lên trời Hóa Lạc, thích sanh lên trời Ðâu Suất, thích sanh lên trời Dạ Ma, thích sanh lên trời Ðao Lợi, thích sanh lên trời Tứ Thiên Vương, thích sanh vào nhà Sát Ðế Lợi, thích sanh vào nhà Bà la môn, thích sanh vào nhà trưởng giả, cư sĩ.

Bấy giờ đức Như Lai Diệu Nhãn suy nghĩ như thế này: “Nay ta hãy khiến cho các Thanh Văn chúng đồng hạnh nguyện, đồng thọ sanh, đồng một oai lực, nhập vào thiền định thứ hai của đức Từ Thị”. Nghĩ như vậy xong liền nhập vào thiền định thứ hai của đức Từ Thị. Bấy giờ có vô lượng trăm ngàn Thanh Văn, ngoại đạo v.v... đều tu định này, đều được sanh lên trên Phạm Thiên.

Ðức Phật nói:

–Này Bí sô, thuở trước đức Như Lai Diệu Nhãn thật ra chẳng phải đức Phật nào khác, chính là thân ta vậy. Các chúng sanh ấy tuy sanh ở Nhị thiền, thoát khỏi tai nạn lửa cháy ở dưới, nhưng chưa lìa chủng tử tham, sân, si cho nên không thể giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết.

Này Bí sô, Như Lai là bậc Ứng Chánh Ðẳng Giác, là thầy của trời, người, đã xa lìa tham, sân, si... tất cả phiền não, đã giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu bi khổ não; lại vì chúng Phạm thiên, Thanh Văn v.v... tùy theo căn cơtuyên thuyết pháp hạnh thanh tịnh. Mọi người nghe xong hoặc có người đoạn tận phân biệt dục và câu sanh, chứng quả A Na Hàm. Hoặc có người phân biệt và ba phẩm câu sanh, chứng quả Tư Ðà Hàm, hoặc có người tuy đoạn tận phân biệt nhưng chưa đoạn câu sanh, chứng quả Tu Ðà Hoàn, thọ quả báo nhân thiên, trải qua bảy lần sanh trở lại nữa mới thành A La Hán.

Ðức Phật dạy:

–Này Bí sô, xuất gia như vậy, Phạm hạnh như vậy, quả chứng như vậy, được thoát ly khỏi biên giới của khổ đau mà được giải thoát. Nay, các ngươi đem hết tâm chí xả ly tham ái, mong cầu con đường giác ngộ.

Bấy giờ đức Thế Tôn thuyết pháp này xong, các Bí sô nghe đức Phật thuyết, trong lòng hết sức hoan hỷ, tín thọ, phụng hành.

 

PHẬT NÓI KINH

TÁT BÁT ÐA TÔ LÝ DU NẠI DÃ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34638)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33453)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43934)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57086)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47571)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39421)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38486)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52949)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36610)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32245)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40487)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43496)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31470)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46718)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36214)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28711)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29249)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31896)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28840)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33373)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29143)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60990)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39786)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26689)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29678)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37396)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40104)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26855)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42667)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37289)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28298)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28900)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26402)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27176)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26197)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34683)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27817)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30485)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33297)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28573)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30083)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25494)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21852)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51321)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26740)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28631)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27717)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24363)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27465)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31951)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30187)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27712)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35463)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27453)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30024)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31790)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23031)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24187)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23030)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26669)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant