Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Luân Vương Thất Bảo

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12953)
Kinh Luân Vương Thất Bảo

PHẬT NÓI KINH LUÂN VƯƠNG THẤT BẢO

 

Đại Chánh Tân Tu số 0038 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống Tây Thiên, Triều Phụng Ðại phu Thí Hồng Lô Khanh, Truyền pháp Ðại sư Thi Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá Vệ cùng đông đủ chúng đại Bí sô. Bấy giờ đức Phật bảo các Bí sô:

–Các ngươi nên biết, có Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Vương, đã thọ pháp quán đảnh, được địa vị luân vương, oai đức tự tại được mọi người tôn trọng. Lúc vua xuất hiện, ở thế gianbảy báu xuất hiện. Những gì là bảy báu? -Ðó là xe báu, voi báu, ngựa báu, chủ tàng thần báu (cư sĩ báu), chủ binh thần báu, Ma ni báu, nữ báu. Bảy báu như vậy theo vua mà xuất hiện.

Sao gọi là xe báu?

–Ðó là bánh xe bằng vàng có một ngàn căm, tối thượng tuyệt diệu, các tướng tròn đầy, có đại oai lực, kim luân báu này từ không trung hạ xuống, đứng trước cửa cung vua. Bấy giờ vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương thấy xe báu này xuất hiện rồi, trong lòng hết sức vui mừng, liền bảo quan hầu rằng: “Ngươi hãy mau chuẩn bị bốn loại binh để ta du hành”. Khi ấy quan hầu vâng lệnh của vua xong liền chuẩn bị bốn loại binh. Khi đã nghiêm chỉnh rồi, liền đến chỗ vua tâu rằng: “Bốn thứ binh đã chuẩn bị xong, mong đức vua hãy du hành, nay đã đúng lúc”.

Bấy giờ vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương liền từ tòa đứng dậy, sửa lại y phục, đi ra cửa cung, chiếc xe báu ngàn căm ấy đến trước vua, chạy về phía tay mặt của vua. Khi ấy vua du hành bốn biển, chỉ trong nháy mắt mà đã trở về cung vua, do vì công năng thù thắng của xe báu vậy. Này các Bí sô, đó gọi là khi vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì xe báu xuất hiện. Ðó là thứ nhất.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện, lại có voi báu xuất hiện, voi báu có thân tướng thù diệu, hoàn toàn trắng tinh, không có xen tạp, giống như rồng lớn có bảy chỗ đầy đặn viên mãn nơi thân, nó từ phương Bắc cỡi hư không mà đến, đứng trước cung vua. Bấy giờ các quan liêu thấy voi báu rồi, tâu lại đầy đủ cho vua. Vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương thấy voi báu này xuất hiện rồi, trong lòng rất vui mừng, tự suy nghĩ: “Hết sức tốt lành, vô cùng thù thắng, nếu ta cần dùng hãy giữ lấy voi báu, nếu ta cần dùng hãy giữ lấy voi báu này mà dùng”.

Bấy giờ vua bảo các thần rằng:

–Voi báu xuất hiện, các ngươi hãy nên siêng năng gìn giữ để phòng bị lúc ta cần đến.

Khi ấy quân hầu vâng lệnh vua xong, luôn luôn siêng năng giữ gìn, khéo léo tập luyện voi báu, không để sơ sót một tí phòng lúc vua dùng đến.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

-Ngày xưa vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thế gian, bấy giờ cũng có voi báu xuất hiện, nhà vua vào lúc sáng sớm cỡi voi báu ấy du hành bốn biển, ngay tức khắc liền trở về cung. Các ngươi nên biết, voi báu có công năng thắng diệu như vậy.

Này các Bí sô, đó gọi là khi vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì có voi báu xuất hiện. Ðó là thứ hai.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương Ðại Quán Ðảnh xuất hiện, lại có bốn con ngựa báu xuất hiện, các bộ phận trên thân chúng đều tròn đầy, con nào cũng có sắc tướng cực đẹp. Ðó gọi là xanh, vàng, đỏ, trắng, trước cổ sau cổ thật đẹp, giống như Mịch La, nó bước đi rất nhanh, lại khéo điều phục, bốn con ngựa báu này xuất hiện ở cung vua. Khi ấy các quan thấy ngựa báu tuyệt đẹp, hiếm có, liền tâu với vua. Vua Ðại Quán Ðảnh thấy bốn con ngựa báu này rồi, trong lòng rất vui mừng tự suy nghĩ: “Ngựa báu xuất hiện hết sức tốt đẹp, nếu ta cần dùng, chắc chắn sẽ được như ý”.

Vua Ðại Luân Vương lại tuyên bố rằng: “Này hỡi các thần, hãy nên siêng năng giữ gìn, khéo léo luyện tập ngựa báu này trong mọi lúc, khi ta cần dùng thì ta sẽ xử dụng”. Khi ấy các viên quan vâng lệnh của vua, luôn luôn phòng hộ ngựa báu, chờ lúc vua xử dụng.

Này các Bí sô, Ngày xưa có vua Ðại Quán Ðảnh xuất hiệnthế gian, khi ấy cũng có ngựa báu xuất hiện. Nhà vua vào lúc sáng sớm cỡi ngựa báu này chu du bốn biển, ngay tức khắc liền trở về cung. Các ngươi nên biết, ngựa báu ấy có công năng thù thắng như vậy. Này các Tỳ kheo, đó gọi là khi Luân Vương Ðại Quán Ðảnh xuất hiện thì ngựa báu cũng xuất hiện. Ðó là thứ ba.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Chủ tàng thần báu xuất hiện. Bấy giờ kho tàng báu to lớn vững chắc, có nhiều tiền của phú quý, do thần Bảo làm chủ. Khi ấy vị thần chủ kho tàng liền đi đến chỗ vua thưa rằng: “Có một kho tàng lớn, quý báu, có đầy đủ tất cả trân bảo thù diệu, đó là vàng... tất cả vật báu, nếu vua cần dùng tôi sẽ dâng tất cả như ý muốn của ngài, không thiếu vật gì”.

Bấy giờ vua Luân Vương thấy thần Bảo chủ kho tàng xuất hiện, trong lòng rất vui mừng. Vua lại nghe thần Bảo nói rằng: “Vàng ... các báu tất cả đầy đủ, ngài muốn lấy bao nhiêu tùy ý”. Khi ấy, nhà vua liền bảo thần Báu chủ kho tàng rằng: “Nay ngươi có oai lực, thần thông sắc tướng như vậy, có thể làm chủ những kho tàng lớn giấu trong đất, như vàng ... các báu, tất cả đầy đủ, thấy những việc làm như vậy hết sứchy hữu, vô cùng tốt lành, ngươi hãy khéo mà chủ trì. Khi nào ta cần, ngươi sẽ cung cấp, ngoài ra khi ta chưa cần, ngươi hãy khéo mà chủ trì.

Này các Bí sô, các ngươi nên biết các kho tàng che giấu dưới đất này, con người không thấy, nhưng phi nhơn thì thấy. Khi Luân Vương xuất hiện, có vị thần chủ kho tàng tự xuất hiện, giữ gìncung cấp tất cả cho vua. Gọi là khi Luân Vương xuất hiện là có Chủ tàng thần báu xuất hiện, đó là thứ tư.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Chủ binh thần báu xuất hiện, vị chủ binh này có đại trí, thao lược, dõng mãnh, oai đức, sức lực lớn và sắc tướng, tất cả đều đầy đủ, khéo huấn luyện binh chủng, phòng thủ ranh giới của vương quốc, nên không bị địch quân xâm nhiễu. Bấy giờ vị Chủ binh thần báu đi đến chỗ vua, thưa như vầy:

–Ðại vương nên biết, tôi là chủ binh thiện nghệ, gìn giữ đất nước của vua, bất cứ lúc nào, có làm việc gì đều đúng theo ý của vua, không hề thiếu sót. Khi ấy nhà vua thấy Chủ binh thần này xuất hiện, trong lòng rất vui mừng, liền bảo rằng: “Nay ngươi có đại trí lược, dõng mãnh, oai đức, sức mạnh, sắc tướng, có thể làm bất cứ điều gì ở bất cứ lúc nào, khéo điều khiển binh chủng để giữ gìn biên giới đất nước, ngươi thật là bậc hiền thiện, ngươi hãy luôn luôn phụ tá cho ta, tất cả việc làm ngươi hãy phương tiện. Nay ngươi chính là người đại thủ hộ cho vua. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Chủ binh thần báu xuất hiện. Ðó là thứ năm.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Ðại Ma Ni báu xuất hiện. Ngọc Ma Ni báu này rất tối thượng, sắc màu tốt đẹp lạ thường, nó có đầy đủ ánh sáng to lớn viên mãn, ánh sáng ấy cực mạnh, chiếu sáng tất cả, có công đức lớn, ở trong cung vua nếu có ngọc báu này, dù cho đêm tối, không có đèn chiếu sáng, ngọc này phát ra ánh sáng tự nhiên chiếu sáng, giống như ánh sáng mặt trời. Này các Bí sô, xưa kia có vị Ðại Luân Vương xuất hiện thế gian, lúc ấy cũng có ngọc Ðại Ma Ni báu có ánh sáng lớn xuất hiện. Khi ấy nhà vua muốn thí nghiệm khả năng của viên ngọc, liền bảo quan đại thần chuẩn bị gấp bốn thứ binh vào lúc ban đêm du hành trong khu rừng. Bấy giờ quan đại thần vâng theo lệnh vua liền chuẩn bị gấp bốn loại binh, rồi đi đến chỗ vua tâu như vầy: “Bốn thứ binh chủng đã tập hợp, nay đã đến lúc xin vua khởi hành”.

Lúc đó nhà vua liền lấy viên ngọc Ðại Ma Ni báu đặt ở trên ngọn cờ, nhà vua đi đầu tiên, vào trong đêm tối, du ngoạn trong khu rừng. Ánh sáng của viên ngọc chiếu sáng cả một do tuần, bốn thứ binh chủng của nhà vua đều được ánh sáng chiếu soi, như ánh sáng trên trời không có sai khác. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Ðại Ma Ni báu xuất hiện. Ðó là thứ sáu.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có nữ báu cũng xuất hiện, sắc tướng của nàng tuyệt đẹp, thân thể tròn đầy xinh đẹp đệ nhất, các người trong thế gian không ai sánh bằng. Nàng êm dịu, nhẹ nhàng, mềm mại như cây Cán Tức Lê; các lỗ chân lông trên người nàng đều toát ra mùi hương vi diệu giống như bình báu chứa đầy hương thơm, lúc nào cũng phảng phất mùi thơm. Lại nữa, hơi thở ra vào của nữ báu đều luôn luôn có mùi thơm như hoa sen xanh, mọi người đều yêu thích. Như lúc vua đi đâu thì nữ báu theo sau, những điều nàng làm đều thích hợp, hoan hỷ tự tại, tánh hạnh nàng thì trinh chánh, không có tà nhiễm, nàng thường nói lời khả ái, ai cũng thích nghe, thân nàng sáng rạng ai cũng thích nhìn. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Nữ báu xuất hiện. Ðó là điều thứ bảy.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo :

–Như vậy gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có bảy báu xuất hiện. Các ngươi nên biết, khi Như Lai, Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác xuất hiện, Ngài nói pháp bảy giác chi. Những gì là bảy?

–Ðó là Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Ðịnh giác chi, Xả giác chi. Như vậy gọi là pháp bảy giác chi, pháp này chỉ có Như Lai, Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác lúc xuất hiện thế gian mới tuyên nói ra, giống như bảy báu ở trước, cũng lại như vậy, chỉ có lúc nào vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì bảy báu mới xuất hiện mà thôi.

Các ngươi nên biết, Như Lai đã nói pháp bảy giác chi khiến cho các chúng sanh như lý tu hành, tất cả đều được an lạc, lợi ích. Các ngươi hãy nên siêng năng tu học như vậy 

 

PHẬT NÓI KINH LUÂN VƯƠNG THẤT BẢO

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23945)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41200)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19675)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23968)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23289)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27488)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26537)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29300)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33164)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20178)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25750)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20901)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31282)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38534)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21411)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44232)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29802)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42161)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22120)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45714)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32096)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23938)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24374)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29235)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33893)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27662)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32111)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21053)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28836)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21551)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28035)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22052)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21413)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19483)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19456)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19816)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19227)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29157)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20606)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28270)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23634)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33158)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31827)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21360)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39603)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21536)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19362)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26358)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24802)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21739)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22364)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29121)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22544)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20457)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23496)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21226)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35279)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24537)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31328)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant