Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Luân Vương Thất Bảo

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12992)
Kinh Luân Vương Thất Bảo

PHẬT NÓI KINH LUÂN VƯƠNG THẤT BẢO

 

Đại Chánh Tân Tu số 0038 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống Tây Thiên, Triều Phụng Ðại phu Thí Hồng Lô Khanh, Truyền pháp Ðại sư Thi Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá Vệ cùng đông đủ chúng đại Bí sô. Bấy giờ đức Phật bảo các Bí sô:

–Các ngươi nên biết, có Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Vương, đã thọ pháp quán đảnh, được địa vị luân vương, oai đức tự tại được mọi người tôn trọng. Lúc vua xuất hiện, ở thế gianbảy báu xuất hiện. Những gì là bảy báu? -Ðó là xe báu, voi báu, ngựa báu, chủ tàng thần báu (cư sĩ báu), chủ binh thần báu, Ma ni báu, nữ báu. Bảy báu như vậy theo vua mà xuất hiện.

Sao gọi là xe báu?

–Ðó là bánh xe bằng vàng có một ngàn căm, tối thượng tuyệt diệu, các tướng tròn đầy, có đại oai lực, kim luân báu này từ không trung hạ xuống, đứng trước cửa cung vua. Bấy giờ vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương thấy xe báu này xuất hiện rồi, trong lòng hết sức vui mừng, liền bảo quan hầu rằng: “Ngươi hãy mau chuẩn bị bốn loại binh để ta du hành”. Khi ấy quan hầu vâng lệnh của vua xong liền chuẩn bị bốn loại binh. Khi đã nghiêm chỉnh rồi, liền đến chỗ vua tâu rằng: “Bốn thứ binh đã chuẩn bị xong, mong đức vua hãy du hành, nay đã đúng lúc”.

Bấy giờ vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương liền từ tòa đứng dậy, sửa lại y phục, đi ra cửa cung, chiếc xe báu ngàn căm ấy đến trước vua, chạy về phía tay mặt của vua. Khi ấy vua du hành bốn biển, chỉ trong nháy mắt mà đã trở về cung vua, do vì công năng thù thắng của xe báu vậy. Này các Bí sô, đó gọi là khi vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì xe báu xuất hiện. Ðó là thứ nhất.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện, lại có voi báu xuất hiện, voi báu có thân tướng thù diệu, hoàn toàn trắng tinh, không có xen tạp, giống như rồng lớn có bảy chỗ đầy đặn viên mãn nơi thân, nó từ phương Bắc cỡi hư không mà đến, đứng trước cung vua. Bấy giờ các quan liêu thấy voi báu rồi, tâu lại đầy đủ cho vua. Vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương thấy voi báu này xuất hiện rồi, trong lòng rất vui mừng, tự suy nghĩ: “Hết sức tốt lành, vô cùng thù thắng, nếu ta cần dùng hãy giữ lấy voi báu, nếu ta cần dùng hãy giữ lấy voi báu này mà dùng”.

Bấy giờ vua bảo các thần rằng:

–Voi báu xuất hiện, các ngươi hãy nên siêng năng gìn giữ để phòng bị lúc ta cần đến.

Khi ấy quân hầu vâng lệnh vua xong, luôn luôn siêng năng giữ gìn, khéo léo tập luyện voi báu, không để sơ sót một tí phòng lúc vua dùng đến.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

-Ngày xưa vua Sát Ðế Lợi Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thế gian, bấy giờ cũng có voi báu xuất hiện, nhà vua vào lúc sáng sớm cỡi voi báu ấy du hành bốn biển, ngay tức khắc liền trở về cung. Các ngươi nên biết, voi báu có công năng thắng diệu như vậy.

Này các Bí sô, đó gọi là khi vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì có voi báu xuất hiện. Ðó là thứ hai.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương Ðại Quán Ðảnh xuất hiện, lại có bốn con ngựa báu xuất hiện, các bộ phận trên thân chúng đều tròn đầy, con nào cũng có sắc tướng cực đẹp. Ðó gọi là xanh, vàng, đỏ, trắng, trước cổ sau cổ thật đẹp, giống như Mịch La, nó bước đi rất nhanh, lại khéo điều phục, bốn con ngựa báu này xuất hiện ở cung vua. Khi ấy các quan thấy ngựa báu tuyệt đẹp, hiếm có, liền tâu với vua. Vua Ðại Quán Ðảnh thấy bốn con ngựa báu này rồi, trong lòng rất vui mừng tự suy nghĩ: “Ngựa báu xuất hiện hết sức tốt đẹp, nếu ta cần dùng, chắc chắn sẽ được như ý”.

Vua Ðại Luân Vương lại tuyên bố rằng: “Này hỡi các thần, hãy nên siêng năng giữ gìn, khéo léo luyện tập ngựa báu này trong mọi lúc, khi ta cần dùng thì ta sẽ xử dụng”. Khi ấy các viên quan vâng lệnh của vua, luôn luôn phòng hộ ngựa báu, chờ lúc vua xử dụng.

Này các Bí sô, Ngày xưa có vua Ðại Quán Ðảnh xuất hiệnthế gian, khi ấy cũng có ngựa báu xuất hiện. Nhà vua vào lúc sáng sớm cỡi ngựa báu này chu du bốn biển, ngay tức khắc liền trở về cung. Các ngươi nên biết, ngựa báu ấy có công năng thù thắng như vậy. Này các Tỳ kheo, đó gọi là khi Luân Vương Ðại Quán Ðảnh xuất hiện thì ngựa báu cũng xuất hiện. Ðó là thứ ba.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Chủ tàng thần báu xuất hiện. Bấy giờ kho tàng báu to lớn vững chắc, có nhiều tiền của phú quý, do thần Bảo làm chủ. Khi ấy vị thần chủ kho tàng liền đi đến chỗ vua thưa rằng: “Có một kho tàng lớn, quý báu, có đầy đủ tất cả trân bảo thù diệu, đó là vàng... tất cả vật báu, nếu vua cần dùng tôi sẽ dâng tất cả như ý muốn của ngài, không thiếu vật gì”.

Bấy giờ vua Luân Vương thấy thần Bảo chủ kho tàng xuất hiện, trong lòng rất vui mừng. Vua lại nghe thần Bảo nói rằng: “Vàng ... các báu tất cả đầy đủ, ngài muốn lấy bao nhiêu tùy ý”. Khi ấy, nhà vua liền bảo thần Báu chủ kho tàng rằng: “Nay ngươi có oai lực, thần thông sắc tướng như vậy, có thể làm chủ những kho tàng lớn giấu trong đất, như vàng ... các báu, tất cả đầy đủ, thấy những việc làm như vậy hết sứchy hữu, vô cùng tốt lành, ngươi hãy khéo mà chủ trì. Khi nào ta cần, ngươi sẽ cung cấp, ngoài ra khi ta chưa cần, ngươi hãy khéo mà chủ trì.

Này các Bí sô, các ngươi nên biết các kho tàng che giấu dưới đất này, con người không thấy, nhưng phi nhơn thì thấy. Khi Luân Vương xuất hiện, có vị thần chủ kho tàng tự xuất hiện, giữ gìncung cấp tất cả cho vua. Gọi là khi Luân Vương xuất hiện là có Chủ tàng thần báu xuất hiện, đó là thứ tư.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Chủ binh thần báu xuất hiện, vị chủ binh này có đại trí, thao lược, dõng mãnh, oai đức, sức lực lớn và sắc tướng, tất cả đều đầy đủ, khéo huấn luyện binh chủng, phòng thủ ranh giới của vương quốc, nên không bị địch quân xâm nhiễu. Bấy giờ vị Chủ binh thần báu đi đến chỗ vua, thưa như vầy:

–Ðại vương nên biết, tôi là chủ binh thiện nghệ, gìn giữ đất nước của vua, bất cứ lúc nào, có làm việc gì đều đúng theo ý của vua, không hề thiếu sót. Khi ấy nhà vua thấy Chủ binh thần này xuất hiện, trong lòng rất vui mừng, liền bảo rằng: “Nay ngươi có đại trí lược, dõng mãnh, oai đức, sức mạnh, sắc tướng, có thể làm bất cứ điều gì ở bất cứ lúc nào, khéo điều khiển binh chủng để giữ gìn biên giới đất nước, ngươi thật là bậc hiền thiện, ngươi hãy luôn luôn phụ tá cho ta, tất cả việc làm ngươi hãy phương tiện. Nay ngươi chính là người đại thủ hộ cho vua. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Chủ binh thần báu xuất hiện. Ðó là thứ năm.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có Ðại Ma Ni báu xuất hiện. Ngọc Ma Ni báu này rất tối thượng, sắc màu tốt đẹp lạ thường, nó có đầy đủ ánh sáng to lớn viên mãn, ánh sáng ấy cực mạnh, chiếu sáng tất cả, có công đức lớn, ở trong cung vua nếu có ngọc báu này, dù cho đêm tối, không có đèn chiếu sáng, ngọc này phát ra ánh sáng tự nhiên chiếu sáng, giống như ánh sáng mặt trời. Này các Bí sô, xưa kia có vị Ðại Luân Vương xuất hiện thế gian, lúc ấy cũng có ngọc Ðại Ma Ni báu có ánh sáng lớn xuất hiện. Khi ấy nhà vua muốn thí nghiệm khả năng của viên ngọc, liền bảo quan đại thần chuẩn bị gấp bốn thứ binh vào lúc ban đêm du hành trong khu rừng. Bấy giờ quan đại thần vâng theo lệnh vua liền chuẩn bị gấp bốn loại binh, rồi đi đến chỗ vua tâu như vầy: “Bốn thứ binh chủng đã tập hợp, nay đã đến lúc xin vua khởi hành”.

Lúc đó nhà vua liền lấy viên ngọc Ðại Ma Ni báu đặt ở trên ngọn cờ, nhà vua đi đầu tiên, vào trong đêm tối, du ngoạn trong khu rừng. Ánh sáng của viên ngọc chiếu sáng cả một do tuần, bốn thứ binh chủng của nhà vua đều được ánh sáng chiếu soi, như ánh sáng trên trời không có sai khác. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Ðại Ma Ni báu xuất hiện. Ðó là thứ sáu.

Lại nữa, này các Bí sô, khi Luân Vương xuất hiện, lại có nữ báu cũng xuất hiện, sắc tướng của nàng tuyệt đẹp, thân thể tròn đầy xinh đẹp đệ nhất, các người trong thế gian không ai sánh bằng. Nàng êm dịu, nhẹ nhàng, mềm mại như cây Cán Tức Lê; các lỗ chân lông trên người nàng đều toát ra mùi hương vi diệu giống như bình báu chứa đầy hương thơm, lúc nào cũng phảng phất mùi thơm. Lại nữa, hơi thở ra vào của nữ báu đều luôn luôn có mùi thơm như hoa sen xanh, mọi người đều yêu thích. Như lúc vua đi đâu thì nữ báu theo sau, những điều nàng làm đều thích hợp, hoan hỷ tự tại, tánh hạnh nàng thì trinh chánh, không có tà nhiễm, nàng thường nói lời khả ái, ai cũng thích nghe, thân nàng sáng rạng ai cũng thích nhìn. Này các Bí sô, đây gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có Nữ báu xuất hiện. Ðó là điều thứ bảy.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo :

–Như vậy gọi là khi Luân Vương xuất hiện thì có bảy báu xuất hiện. Các ngươi nên biết, khi Như Lai, Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác xuất hiện, Ngài nói pháp bảy giác chi. Những gì là bảy?

–Ðó là Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Ðịnh giác chi, Xả giác chi. Như vậy gọi là pháp bảy giác chi, pháp này chỉ có Như Lai, Ứng Cúng Chánh Ðẳng Giác lúc xuất hiện thế gian mới tuyên nói ra, giống như bảy báu ở trước, cũng lại như vậy, chỉ có lúc nào vua Ðại Quán Ðảnh Luân Vương xuất hiện thì bảy báu mới xuất hiện mà thôi.

Các ngươi nên biết, Như Lai đã nói pháp bảy giác chi khiến cho các chúng sanh như lý tu hành, tất cả đều được an lạc, lợi ích. Các ngươi hãy nên siêng năng tu học như vậy 

 

PHẬT NÓI KINH LUÂN VƯƠNG THẤT BẢO

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23606)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18990)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24768)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30978)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23993)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26517)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21322)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38139)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18805)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19978)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19051)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23888)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22816)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22917)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18712)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15849)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18864)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19685)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19957)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18128)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22946)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34170)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16921)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39259)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26081)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20099)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29148)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22905)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30967)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21012)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23330)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19823)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24686)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20228)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19863)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant