Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Cổ Lai Thế Thời

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11963)
Kinh Cổ Lai Thế Thời


PHẬT NÓI KINH CỔ LAI THẾ THỜI


Đại Chánh Tân Tu số 0044 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Mất tên người dịch, phụ lục Ðông Tấn.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Phật du hóa tại Tiên nhân Lộc xứ ở Ba La Nại. Bấy giờ các Tỳ kheo sau khi đã ăn xong, hội tại giảng đường để cùng nhau nghị luận rằng:

–Giả sử có một trưởng giả thực hành bình đẳng. Có vị Tỳ kheo tịnh giới, phụng hành giới chơn chánh, đi vào nhà vị trưởng giả ấy để khất thực, so với người được một trăm cân vàng, cái nào thù thắng hơn?

Có vị Tỳ kheo đáp:

–Người được một trăm cân vàng, ngàn cân vàng nào có ích gì. Hãy suy tư cho kỹ điều này. Vị Tỳ kheo tôn thờ giới, tu hành chơn chánh, thọ nhận sự cúng dường của ông trưởng giả, tôi cho phước đức của ông trưởng giả mới là tối thượng.

Bấy giờ hiền giả A Na Luật cũng ở trong hội chúng, nghe lời thuyết pháp ấy, ngài trả lời rằng:

–Ðâu chỉ có trăm ngàn cân vàng, giả sử châu báu nhiều hơn gấp bội như vậy cũng không bằng sự cúng dường phạn thực của vị trưởng giả cho Tỳ kheo chơn giới. Vì sao như vậy? Nhớ lại kiếp trước của tôi ở nước Ba La Nại, lúc ấy lúa thóc khan hiếm, nhân dân đói kém, tôi phải gánh cỏ đi bán để tự nuôi sống. Lúc đó có vị Duyên giác tên là Hòa Lý đi đến du hóa nước này. Buổi sáng tôi ra khỏi thành muốn đi gánh cỏ, bấy giờ vị Duyên giác đắp y, ôm bát vào thành để khất thực. Ở giữa đường, tôi đang gánh cỏ trở về trong thành thì lại gặp ngài ôm bát không đi ra. Ngài Duyên giác Hòa Lý từ xa trông thấy tôi đi đến, liền tự nghĩ rằng: “Sáng sớm ta vào thành thì người này ra khỏi thành. Nay y gánh cỏ trở về, có lẽ buổi sáng y chưa ăn, vậy ta hãy nên theo sau, đến nhà y để xin được chút gì cho qua cơn đói”. Lúc đó tôi gánh cỏ tự trở về nhà mình rồi thả gánh cỏ xuống đất, quay lại thấy vị Duyên giác đi theo sau tôi như bóng theo hình. Khi ấy tâm tôi suy nghĩ: “Sáng sớm ra khỏi thành ta thấy vị Duyên giác này vào thành khất thực, nhưng lại ôm bát không trở ra, có lẽ ngài chưa được ăn uống gì, ta hãy nhịn ăn để dâng cho ngài”. Tôi liền mang thức ăn ra, quỳ xuống dâng cho ngài để thân ngài được an ổn. Tôi nói:

–Mong trên đạo nhân thương xót mà nhận cho.

Khi ấy vị Duyên giác nói:

–Lúa thóc khan hiếm, nhân dân đói kém, vậy hãy chia cơm này ra làm hai phần, một phần bỏ vào bình bát ta, còn một phần thì ngươi hãy ăn vào. Như vậy mới là đúng pháp.

Tôi đích thân thưa:

–Ðúng vậy, thưa thánh nhân, kẻ bạch y này ở nhà, hễ đốt lửa lên nấu bất cừ vật gì ăn cũng được, từ từ nấu ăn, sớm muộn gì cũng không sao. Xin đạo nhân hãy thương xót nhà con mà thọ nhận cho.

Khi ấy vị Duyên giác kia mới chịu thọ nhận đồ ăn. Nhân công đức này mà ta được bảy lần sanh lên trời làm vua chư thiên, bảy lần ở thế gian được làm người tôn quý. Nhân một lần cúng dường này mà được các quốc vương, trưởng giả, nhân dân, quần thần, trăm quan hễ trông thấy là cúng dường áo quần, đồ ăn uống, giường chõng, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh, những thứ ấy ta không cầu nhưng nó vẫn tự đến. Lúc ta mới sanh ở nhà dòng họ Thích, các kho tàng hiện ra các thứ kim ngân trân bảo không thể kể xiết, và tài vật khác nhiều vô số. Khi ta bỏ nhà, vứt sự nghiệpsa môn, giả sử bấy giờ ta biết được vị đạo nhân Duyên giác ấy đã thành đạo, ta dùng tâm rộng lớn cúng dường thì phước đức không thể đo lường được. Bấy giờ có bài tụng:

“Ta từng đi gánh cỏ

Bần cùng, làm thuê sống

Cúng dường vị sa môn

Duyên giác Hòa Lý.

Nhân đó sanh họ Thích

Gọi là A Na Luật

Ta liền ca và múa

Giỏi trống đờn và sáo.

Bấy giờ thấy đạo sư

Chánh giác hơn cam lồ

Liền phát tâm hoan hỷ

Xuất gia làm sa môn.

Bèn biết được kiếp trước

đời trước đã trải qua

Ở cung trời Ðao Lợi

Ðược bảy lần an ổn.

Ở trời bảy, đây bảy

Cả thảy mười bốn lần

Ở trên trời, thế gian

Chưa từng đến ác đạo.

Biết được người đến, đi

Sanh tử đi về đâu

Tuy trên trời vui sướng

Sao bằng được Thánh đạo?

Nhờ định ý của ta

Tịch nhiên được nhất tâm

Tẩy trừ kết, các cấu

Ðạo nhãn thấy thanh tịnh.

Cho nên mới xuất gia

Bỏ sự nghiệp tại gia

Sự nghiệp đã hiệp thành

Nhờ Phật dạy đầy đủ.

Cũng chẳng thích sự sanh

Cũng không cầu sự tử

Lúc đầu không lựa chọn

Tịch nhiên định ý chí.

Giữa rừng Trúc, Duy Ða

Ở đó ta mạng chung

Ở nơi Trúc thọ hạ

Diệt độ được vô lậu”.

Bấy giờ đức Thế Tôn với đạo nhĩ nghe hết tất cả những điều Tỳ kheo A Na Luật nói về túc mạng (đời trước) cho chúng Tỳ kheo , vốn là quả báo ngài đã đạt được trong những kiếp trước. Ðức Thế Tôn từ phòng tham thiền đi đến giảng đường, ngồi trước Tỳ kheo, Ngài bảo các Tỳ kheo:

–Các ngươi cùng hội họp nơi đây để bàn luận chuyện gì?

Các Tỳ kheo thưa:

–Tất cả chúng con cùng hội họp nơi đây để bàn luận về chỗ quy thú của việc tội, phước, thiện, ác. Hiền giả A Na Luật tự nói về sự vun trồng gốc đức ở đời trước của ngài.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo: -Các ngươi đã nói về sự việc đời quá khứ. Vậy có muốn nghe Như Lai nói về nguồn gốc ở đương lai chăng?

Các Tỳ kheo thưa:

–Xin vâng, bạch Thế Tôn, nay đã đúng lúc đức Thế Tôn nói về pháp đương lai cho các Tỳ kheo nghe. Nghe xong chúng con sẽ phụng trì.

Ðức Phật bảo:

–Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ.

Các Tỳ kheo thưa:

–Xin vâng, bạch Thế Tôn, chúng con mong được nghe.

Ðức Phật bảo:

–Ở đời đương lai, con người sống lâu đến tám vạn tuổi. Nhân dân ở cõi Diêm Phù Ðề này thịnh vượng, ngũ cốc dồi dào. Các tụ lạc của con người sống cách nhau bằng tiếng gà gáy (hai bên cùng nghe). Người nữ đến năm trăm tuổi mới lấy chồng. Chúng sanh lúc ấy chỉ có ba thứ bệnh: bệnh già, đại tiện, tiểu tiện và mong cầu.

Bấy giờ có một vị vua tên là Kha, chủ bốn thiên hạ, làm vua Chuyển luân vương, lấy chánh pháp trị dân, có bảy báu tự nhiên: xe có bánh bằng vàng, voi trắng, ngựa xanh, minh châu, vợ là ngọc nữ, vị thần coi về kho tàng, vị thần coi về binh đội. Nhà vua có một ngàn người con trai dõng mãnh, sức lực, dung mạo thù thắng, hàng phục được binh đội của nước khác. Nhà vua cai trị bốn thiên hạ, không dùng roi, gậy, dao kiếm, lấy chánh pháp để giáo hóa, nhân dân an ổn. Vua có cổ xe lớn làm bằng bảy báu, bánh xe có ngàn cây căm, cao ba mươi hai trượng. Xe này rất cao, oai quang vòi vọi, bên trên xe có treo phan để bố thí tất cả chúng sanh y thực, giường chõng, xe chở hương hoa, đèn đuốc để cúng dường Sa môn, đạo nhân và những kẻ bần cùng. Khi bố thí xong, nhờ đức tin của gia đình, bỏ nước, bỏ ngôi vua, bỏ nhà học đạo, làm sa môn. Khi ấy tộc tánh tử này đã mộ đạo, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp y, đạt được phạm hạnh, tịnh tu vô thượng, cứu cánh Phật giáo, hiện tại tự nhiên thành sáu thần thông, đã chấm dứt sanh tử, việc cần làm đã làm xong, thấu rõ nguồn gốc của danh sắc.

Bấy giờ Tỳ kheo hiền giả ở trong hội, từ tòa đứng dậy, trịch áo vai hữu, quỳ dài chắp tay bạch đức Thế Tôn:

–Ðời tương lai con sẽ làm vua Kha, chủ bốn phương thiên hạ, bảy báu tự nhiên, có ngàn người con trai, lấy chánh pháp cai trị, rộng thí tất cả, rồi xuất gia học đạo, thành Vô trước huệ chăng?

Khi ấy đức Thế Tôn la mắng Tỳ kheo ấy rằng:

–Này gã ngu si kia, hãy nên làm cho một đời được thành đạo đức rốt ráo. Sao lại cầu trôi lăn trong sanh tử mà nói rằng: “Ðời sau của con làm Chuyển Luân Thánh Vương, tham đắm bảy báu, có ngàn người con trai dõng mãnh, rồi sau đó mới vào đạo”.

Ðức Phật bảo Tỳ kheo ấy:

–Ðời đương lai của ngươi sẽ được làm vua Kha, chủ bốn phương thiên hạ, rộng bố thí tất cả, xuất gia thành đạo.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

–Con người ở đời hậu lai tuổi thọ tăng đến tám vạn tuổi. Sẽ có đức Thế Tôn hiệu là Di Lặc Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu là Phật Thế Tôn như ta hiện nay vậy. Chư thiên, Phạm Thích, Sa môn, Phạm chí, ở trên trời, dưới trời chẳng ai mà chẳng quy phục theo Ngài để thọ lãnh đạo giáo. Ngài rộng thuyết pháp giáo hóa bậc thượng, trung, hạ, làm cho họ khéo phân biệt nghĩa lý, tịnh tu Phạm hạnh. Ngài làm cho tất cả được đạo hóa, giống như ta ngày nay vậy. Lời dạy thanh tịnh của Ngài lưu bố cùng khắp trên trời, dưới đất, chẳng ai chẳng thọ lãnh chúng. Chúng Tỳ kheo của Ngài có vô số.

Khi ấy hiền giả Di Lặc ở trong hội này liền từ tòa đứng dậy, trịch áo vai bên phải, quỳ dài chắp tay, đến trước bạch đức Phật rằng: -Thưa vâng, bạch Thế Tôn, đời đương lai của con lúc ấy con người thọ đến tám vạn tuổi, con sẽ làm Di Lặc Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, giáo hóa chúng sanh trên trời, dưới trời như đức Phật hiện nay vậy.

Khi ấy đức Thế Tôn tán thán ngài Di Lặc rằng:

–Lành thay! Lành thay! Hãy thi hành lòng từ nhu thuận rộng lớn để cứu độ vô lượng vô số chúng sanh. Hãy hưng khởi ý muốn này, vì tất cả chúng sanh ở đời đương lai mà tuyên xướng, dẫn dắt, cũng như ta hiện nay vậy. Ðời đương lai ngươi sẽ thành Phật hiệu là Di Lặc Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu là Phật Thế Tôn.

Bấy giờ hiền giả A Nan cầm quạt hầu Phật, đức Phật bảo tôn giả A Nan : -Hãy đem tấm y do tơ vàng dệt thành lại đây. Ta sẽ thưởng cho Tỳ kheo Di Lặc.

Tôn giả A Nan vâng lời, liền mang đến dâng đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn nhận rồi liền đem cho ngài Di Lặc, nói với ngài Di Lặc rằng:

–Hãy nhận lấy pháp y này để cúng dường chúng tăng. Vì sao vậy? Vì các đức Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giácthế gian làm cho con người được nhiều lợi ích, dùng chí đức để cứu độ họ.

Ngài Di Lặc liền lấy y này dâng lên chúng tăng. Bấy giờ ma Ba Tuần trong lòng tự nghĩ: “Sa môn Cù Ðàm vì các Tỳ kheo giảng về đời đương lai. Nay ta muốn đến nhiễu loạn giáo pháp của ngài”.

Ma liền đi đến trước đức Thế Tôn, nói kệ tụng:

“Tôi nghĩ người bấy giờ

Thân mềm mại, tóc mượt

Thân đầy báu anh lạc

Ðầu trang sức ngọc hoa”.

Thế Tôn nói:

–Nay ma Ba Tuần cố ý đến đây muốn não loạn đạo giáo của ta.

Ðức Phật nói kệ:

“Nhân dân thời bấy giờ

Vô trước, đoạn hồ nghi

Cắt đứt lưới sanh tử

Việc làm không thất thoát

Theo Phật Di Lặc dạy

Tu phạm hạnh thanh tịnh”.

Thiên ma:

“Tôi nghĩ người bấy giờ

Thân mặc y ngời sáng

Và xoa hương chiên đàn

Trang nghiêm thân và đầu

Ở thành Kê Ðầu Mạc

Nơi vua Kha trị vì”.

Thế Tôn:

“Người bấy giờ chí thành

Vô ngã, vô sở thọ

Không dùng châu báu lạ

Tâm khôngtham trước

Ở đời Phật Di Lặc

Tu phạm hạnh thanh tịnh”.

Thiên Ma:

“Tôi nghĩ người bấy giờ

Tham của báu, uống, ăn

Thích công việc ca múa

Ưa trống, đờn, cầm sắc

Ở thành Kê Ðầu Mạc

Nơi vua Kha trị vì”.

Bấy giờ đức Phật dùng bài kệ đáp lại ma:

“Kẻ ấy được vô cực

Phá lưới, hết câu thúc

Thiền định, hành bình đẳng

Vui mừng vô sở trước

Ma Ba Tuần nên biết

Lúc đó ngươi không còn!”.

Bấy giờ trong lòng ma Ba Tuần tự nghĩ: “Ðức Như Lai là bậc thần thánh, đã biết chỗ an trụ, hưng khởi và hủy diệt của ta”, nên ma buồn rầu, không vui, xấu hổ mà bỏ đi.

Ðức Phật nói như vậy xong, lúc ấy tất cả đều hoan hỷ

PHẬT NÓI KINH CỔ LAI THẾ THỜI

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26229)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27537)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27929)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26726)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31244)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20282)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22967)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30078)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21596)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20283)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22683)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20783)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30339)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28802)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34746)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44248)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35540)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22564)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21386)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20701)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24772)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37937)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19073)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19354)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21849)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20887)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29534)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35163)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28842)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32620)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26235)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28941)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43167)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34979)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43956)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37924)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21342)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43040)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39862)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53801)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36833)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40829)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49743)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47331)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27746)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27038)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27245)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24081)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20865)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34327)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22485)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25137)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25861)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22966)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22477)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21769)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23329)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21192)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 29897)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant