Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Khổ Ấm Nhân Sự

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11545)
Kinh Khổ Ấm Nhân Sự


PHẬT NÓI KINH KHỔ ẤM NHÂN SỰ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0055 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Sa môn Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở trong vườn Ni Câu Lâu, thành Ca Duy La Bà, Thích Ky Ðề (dòng sát Ðế Lợi). Bấy giờ Thích Ma Ha Năng Cừ, sau buổi trưa thung dung đi đến chỗ đức Thế Tôn. Khi đến xong đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, ngồi qua một bên. Thích Ðại lực sĩ (Thích Ma Ha Năng Cừ) ngồi qua một bên xong, bạch đức Thế Tôn:

–Như những pháp mà đức Thế Tôn dạy con đều biết hết. Ðó là ba ý niệm trói buộc: ý dâm trói buộc, ý sân hận ngu si trói buộc. Như vậy, những pháp mà đức Thế Tôn dạy con đều biết. Nay đây con đã sanh sự dâm dục dính mắc nơi ý mình, đã sanh sự sân hậnngu si dính mắc nơi ý mình. Cho nên, bạch đức Thế Tôn, con đã nghĩ như vầy: “Ta có pháp gì chưa chấm dứt mà khiến ta sanh ra dâm dục đắm trước nơi ý? Sanh ra sự sân hận, ngu si đắm trước nơi tâm ý?”.

Ðức Phật dạy:

–Này Ðại lực sĩ, pháp chưa chấm dứt, khiến cho người ở tại gia cũng không học đạo, không tin thích việc xuất gia, bỏ gia đình. Này Ðại lực sĩ, nếu pháp này chấm dứt thì ngươi cũng muốn ở tại gia, chắc chắn ngươi có thể tin thích xuất gia, bỏ nhà học đạo. Này Ðại lực sĩ, pháp ấy vì chưa chấm dứt cho nên mới khiến ngươi ở tại gia, không tin thích xuất gia, bỏ nhà học đạo.

Bấy giờ Thích Ðại lực sĩ từ tòa đứng dậy, đứng qua một bên, đắp y, chắp tay hướng về đức Thế Tôn bạch rằng:

-Như vậy, nay con đối với đức Thế Tôn có sự tín thích, cúi mong đức Thế Tôn khéo vì con thuyết pháp. Nhờ thấy pháp mà chấm dứt được nghi ngờ.

Ðức Phật bảo:

Này Ðại lực sĩ, có năm dâm dục, ái niệm, ái sắc, gần với dâm, nhiễm trước: mắt biết sắc, tai biết tiếng, mũi biết mùi, lưỡi biết vị, thân biết nhiễm trước vật mịn trơn. Ở trong các thứ ấy mà tự vui thích, ái lạc mùi vị, vui thích trong đó. Như vậy, này Ðại lực sĩ, ở trong cái khí vị dâm có nhiều bại hoại. Thế nào, này Ðại lực sĩ, đối với dâm có nhiều bại hoại? Này Ðại lực sĩ, nếu người con nhà dòng dõi học tập nghề nghiệp khéo léo để tự bảo tồn mạng sống: hoặc cày ruộng, hoặc mua bán, hoặc sao chép sách, hoặc học số, hoặc học toán, hoặc học in ấn, hoặc học thơ, hoặc học làm đồ gốm, hoặc dạy học, hoặc được vua chiêu mộ. Những người ấy bị sự lạnh buốt bức bách, sự nóng lạnh thiêu đốt, phải nhẫn chịu sự đói khát dày vò, bị muỗi mòng, chí rận chích đốt, họ mong cầu tiền tài. Người con nhà dòng dõi kia, như vậy, khởi ra việc làm như vậy, siêng năng làm việc như vậy, nhưng vẫn không thể kiếm ra tiền. Kẻ ấy liền ưu sầu, không vui, khóc lóc, tự đánh, tự đập thân mình, tăng thêm sự ngu si, siêng năng làm việc mà không có kết quả.

Nếu người con nhà dòng dõi kia khởi ra như vậy, tạo tác như vậy, siêng năng làm việc như vậy, kẻ ấy được nhiều tiền tài. Khi được tiền tài rồi liền giữ gìn đừng cho tiền tài này bị vua chiếm đoạt, đừng để giặc cướp, đừng để lửa cháy, đừng để hư mục, làm lợi, đừng để bị thất lợi. Kẻ ấy gìn giữ tiền của như vậy nhưng vẫn bị vua chiếm đoạt, giặc cướp, lửa cháy, bị tiêu hủy, làm lợi bị thất lợi. Kẻ ấy liền ưu sầu, không vui, khóc lóc, tự đánh, tự đập thân mình, chỉ thêm sự ngu si.

Lại nữa, sự ưa thích lâu dài chắc chắn sẽ bị bại hoại. Do đó, này Ðại lực sĩ, hiện thân đời này là đại khổ ấm. Nhân vì dâm nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, chính nhân duyên của dâm này, này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân vì dâm đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Nhân vì dâm mà mẹ tranh với con, con tranh với mẹ, cha tranh với con, con tranh với cha, anh tranh với em, em tranh với anh. Họ đấu tranh với nhau: mẹ nói con sai, con nói mẹ sai, cha nói con sai, con nói cha sai, anh nói em sai, em nói anh sai. Huống chi là đối với người ngoài?

Này Ðại lực sĩ, đó là khổ ấm hiện nay vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Này Ðại lực sĩ, nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, do đó vua tranh với vua, Bà la môn tranh với Bà la môn, cư sĩ tranh với cư sĩ, giặc cướp tranh với giặc cướp, thợ thuyền tranh với thợ thuyền. Họ đấu tranh với nhau tạo ra đủ thứ dụng cụ để chiến đấu. Hoặc dùng tay đánh, hoặc dùng đá ném, hoặc dùng dao đâm, gậy đập, trong đó có người chết, hoặc khổ gần chết. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại này. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, cho nên mới mặc áo giáp, mang cung tên, mang áo giáp bằng da, cầm dao thật bén, vây nhau mà đánh. Trong lúc đó hoặc dùng voi để đấu, hoặc dùng ngựa, hoặc dùng xe, hoặc dùng bộ binh, hoặc dùng đàn bà, hoặc dùng đàn ông, trong lúc đó hoặc có người chết, hay khổ gần chết. Ðó chính là, này Ðại lực sĩ, khổ ấm hiện tại. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, cho nên mới mặc áo giáp, mang cung tên, mang áo giáp bằng da, cầm dao thật bén, đi đến thành thật cao ý muốn cong phạt. Những kẻ ấy trong lúc đó, hoặc thổi vào vỏ ốc (thổi tù và), hoặc đánh trống, hoặc dùng tiếng kêu gọi, hoặc dùng chày sắt, hoặc dùng xoa, hoặc dùng kích, hoặc dùng bánh xe bén, hoặc dùng tên bắn lẫn nhau, hoặc xô đá chạy loạn xạ, hoặc dùng nỏ, hoặc lấy nước đồng sôi mà đổ, trong đó có người chết, hay khổ gần chết. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện nay vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, đi đến thành ấp của vua, hoặc xuyên qua tường, phá kho, hoặc ăn cắp đồ vật của người khác, hoặc đánh hoặc chận đường của người khác, phá thành người khác, phá thôn, giết người, kẻ ấy bị quan Hữu Ty bắt được hành xử đủ điều khổ sở, hoặc chặt tay, hoặc chặt chân, hoặc cắt tai, hoặc xẻo mũi, hoặc cắt lưỡi, hoặc bứt búi tóc, hoặc bứt tóc, hoặc bứt cả tóc và búi tóc, hoặc bỏ vào trong hòm, hoặc lấy áo phủ lại rồi giết, hoặc lấp cát đá lên trên, hoặc phủ cỏ lên trên, hoặc bỏ trong miệng con lừa bằng sắt, hoặc bỏ trong miệng con sư tử bằng sắt, hoặc bỏ vào trong cái chảo bằng đồng, hoặc bỏ trong chảo bằng sắt, hoặc cắt ra từng đoạn, hoặc dùng dao bén đâm vào hai tay, hoặc nằm trên giường bằng sát nóng, hoặc dùng dầu sôi mà rưới, bỏ vào cối lấy chày sắt mà giã, hoặc cho rắn cắn, hoặc lấy gậy đập, hoặc dùng cây phan, hoặc dẫn đến dưới cây nêu lấy dao cắt đầu. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, tạo thân khổ hạnh, miệng, ý khổ hạnh. Lúc ấy hoặc bị tai hoạn bệnh khổ, nằm ở trên giường, nằm ở trong bóng mát, thân bị bệnh, cực khổ, đau đớn, không vui, mạng sống muốn chấm dứt. Kẻ ấy thân hành khổ hạnh, miệng, ý hành khổ hạnh, đến lúc mạng chung bị treo ngược hai chân lên trời, đầu chúc xuống đất, như lúc hoàng hôn, mặt trời muốn lặn xuống ngọn núi lớn, xuống giữa ngọn núi lớn thì bóng hòn núi ấy ngã dài xuống dưới đất cũng như vậy. Ðó là kẻ kia thân hành khổ hạnh, miệng hành khổ hạnh, ý hành khổ hạnh, đến lúc mạng chung bị dốc ngược đầu xuống đất. Kẻ ấy nghĩ như vầy: “Thân ta khổ hạnh, miệng khổ hạnh, ý khổ hạnh này bị treo ngược đầu dưới đất bởi ta vốn không thực hành, vốn không làm phước, ta chỉ làm điều tội ác. Vì thích làm ác, tham lam, làm điều hung bạo, không làm hạnh phước, không làm hạnh thiện, không làm chỗ để sau quay về, chắc chắn phải đọa vào ác thú, lúc đó liền có sự thay đổi, hối hận. Thay đổi hối hận rồi, vì sanh bất thiện cho nên cũng là bất thiện. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, tạo tác thân khổ hạnh, khẩu và ý khổ hạnh. Kẻ ấy tạo thân khổ hạnh rồi, tạo khẩu, ý khổ hạnh rồi, do nhân đó, duyên đó khi thân hoại mạng chung sanh trong Nê Lê ác thú. Chính đó, này Ðại lực sĩ, chính là khổ ấm của thân này ở đời sau. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Này Ðại lực sĩ, chính là do năm khí vị dâm mà có nhiều khổ, bại hoại.

Còn Thánh đệ tử thì không như vậy, có tri kiến như chơn, không có hỷ lạc đối với dâm, vì nó tạo ra pháp ác bất thiện. Ðó gọi là Vô thượng tịch tĩnh. Như vậy, này Ðại lực sĩ, Thánh đệ tử cùng tương ưng với dâm pháp như vậy. Lại nữa, này Ðại lực sĩ, ta ít thích dâm, biết nó là khổ, biết nó là bại hoại. Ðó là tri kiến như thật của ta, ta cũng không đối với sự dâm mà tạo ra pháp ác bất thiện, nhờ đó mà ta được an lạc. Gọi đó là Vô thượng tịch tĩnh. Này Ðại lực sĩ, như vậy ta không tương ưng với dâm pháp.

Này Ðại lực sĩ, có một thời ta ở trong hang Thất Diệp, Bệ Ðà Niệu Chỉ Hữu Hiếp, nước La Duyệt Kỳ. Này Ðại lực sĩ, sau lúc xế chiều ta đứng dậy đi đến bên Chỉ Hữu Hiếp, ta ở trong đó, từ xa trông thấy các Ni Kiền, họ thường không ngồi mà thường quỳ, là hạnh rất thống khổ. Ta đến chỗ họ, đến xong nói với họ rằng: “Vì sao? Này Ni Kiền, lại thường quỳ như thế này mà không thường ngồi? Làm cái điều hết sức khổ hạnh như vậy?”. Họ đáp rằng: “Này Cù Ðàm, có thầy Ni Kiền thân tộc tử nói như vầy: Này các Ni Kiền, (chúng ta vốn tạo các ác hạnh) nay làm pháp khổ hạnh này sẽ tiêu trừ các ác hạnh kia. Ðó là nay thân nghiệp hành, khẩu, ý nghiệp hành, nếu có điều ác hãy đừng làm”. Ta nói với họ: “Này các Ni Kiền, vì sao các ngươi đối với thầy Ni Kiền thân tộc tử mà các ngươi có thể tin, có thể nhận lời của vị ấy được? Sao lại không nghi ngờ vị thầy kia?”. Họ trả lời rằng: “Này Cù Ðàm, vị thầy Ni Kiền thân tộc tử của chúng tôi, chúng tôi không nghi ngờ vị thầy ấy, vì vị ấy có thể tin, có thể chấp nhận được”. Ta đáp lại họ rằng: “Như vậy, như các Ni Kiền của các ngươi, có Ni Kiền, có Ni Kiền kia vốn đã tạo ác hạnh, nên phải làm khổ hạnh cùng cực. Ni Kiền kia chết rồi đời sau sanh ở nhân gian sẽ cũng lại học ở trong Ni Kiền này, phải thường quỳ, không ngồi làm khổ hạnh như vậy, như nay các ngươi đang làm sao?”. Họ nói như vầy:

–Này Cù Ðàm, không theo thiện hạnh vẫn được thiện báo. Vua Tần Phù Bà sống an trụ trong an lạc, còn Sa môn Cù Ðàm thì không được như vậy.

Ta đáp:

–Này các Ni Kiền, các ngươi nói như vậy là không đúng. Vì sao vậy? Vì kẻ phàm phu ngu si, bất định, không thiện, không nhàm chán, không biết đủ mới nói rằng: “Vua Tần Phù Bà thường ở nơi thiện, thường được an lạc, còn Sa môn Cù Ðàm thì không được như vậy”. Này các Ni Kiền, nên phải trước nhất là biết ta, tại sao ta thường ở trong sự an lạc mà nói: “Vua Tần Phù Bà hay Sa môn Cù Ðàm?”. Này các Ni Kiền, ta sẽ nói cho các ngươi biết, ta là người khéo sống trong sự an lạc chứ không phải là Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt. Các ngươi không nên nói như vầy: “Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt thường sống trong sự an lạc chứ không phải Sa môn Cù Ðàm mà có thể sánh kịp, này Sa môn Cù Ðàm!”.

Nay ta hỏi các ngươi:

–Ai là người khéo sống trong sự an lạc, vua Tần Phù Bà hay Sa môn Cù Ðàm? Ý của các Ni Kiền thế nào? Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt đã được tự tại về miệng và ý chăng? Trong bảy ngày bảy đêm thân đã hoàn toàn an trụ trong an lạc chăng?

Các Ni Kiền thưa:

–Chẳng được vậy, thưa Cù Ðàm.

Ðức Phật hỏi tiếp:

–Hoặc sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, hai ngày hoặc một ngày một đêm vua được tự tại về miệng và ý chăng? Thân đã hoàn toàn được sống trong sự an lạc chăng?

–Thưa Cù Ðàm, không được.

Ý của các Ni Kiền thế nào? Ta đã được tự tại về miệng và ý chăng? Trong một ngày một đêm, thân của ta có sống trong sự an lạc chăng?

–Ðược, thưa Cù Ðàm.

–Từ hai, ba cho đến bảy ngày bảy đêm miệng và ý của ta có được hoàn toàn khéo sống trong sự an lạc chăng?

–Ðược, thưa Cù Ðàm.

–Ý của các Ni Kiền thế nào? Ta và vua, ai thường khéo sống trong sự an lạc, vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt hay là ta?

–Như chúng tôi nhờ Sa môn Cù Ðàm thuyết giảng nên biết được nghĩa này. Chính Sa môn Cù Ðàm mới là người khéo sống trong an lạc, chứ không phải vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt.

–Này Ðại lực sĩ, hãy giảm thiểu sự dâm, biết nó có nhiều sự khổ, trong sự bại hoại thì nó có nhiều bại hoại nhất. Do đó nên Thánh đệ tử dùng trí tuệ để thấy như chơn, nên đối với dâm, pháp ác bất thiện không hỷ lạc chúng được. Ðó là sự Vô thượng tịch tịnh.

Như vậy, này Ðại lực sĩ, Thánh đệ tử tương ưng cùng pháp dâm như vậy.

Lại nữa, này Ðại lực sĩ, ta giảm thiểu mùi vị dâm vì nó có nhiều khổ, biết nó là bại hoại. Ðó là ta dùng trí tuệ bình đẳng thấy như chơn, cũng không đối với sự dâm mà có tạo pháp bất thiện, chỉ chuyên thủ hộ để được tự vui. Ðó là sự tịch tĩnh Vô thượng. Như vậy, này Ðại lực sĩ, ta không tương ưng cùng pháp dâm.

Ðức Phật dạy như vậy, vị Ðại lực sĩ ấy cùng các Tỳ kheo đã nghe đức Thế Tôn dạy xong, vui mừng hoan hỷ.

 

PHẬT NÓI KINH KHỔ ẤM NHÂN SỰ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12529)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10859)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10529)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11203)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12012)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13168)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13660)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33681)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11345)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12941)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13068)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11643)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17906)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11452)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11870)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11519)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18987)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12563)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13157)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15788)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11831)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12783)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12641)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13979)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13006)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12958)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13306)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12716)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11763)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11742)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12347)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12394)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19836)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11975)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16896)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12683)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15070)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12898)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12253)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11927)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11934)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16518)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13237)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12504)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11832)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19870)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11170)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11270)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11105)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10980)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10045)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11761)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant